Luật Sư Tranh Tụng

luật Sư Tư Vấn Về Hoãn Thi Hành ÁN

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

 Điều 61Bộ luạt hình sự định người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong trường hợp sau đây: 

– Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến một năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng , đặc biệt nghiêm trọng.

– Bị kết án về tội ít nghiêm trọng, do nhu cầu công việc thì được hoãn đến một năm

– Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại phạm tội mới thì tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.

Trường hợp 2: Nếu yêu cầu hoãn hình phạt tù từ sau ngày 01/07/2016 điều kiện hoãn hình phạt tù:

* Điều 67 Bộ luật hình sự 2015 quy định hoãn chấp hành hình phạt tù như sau:

– Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

– Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

– Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

– Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

* Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.   

       * Thủ tục hoãn chấp hành hình phạt tù:

– Nếu người bị kết án đang được tại ngoại, người bị kết án làm đơn yêu cầu xin hoãn thi hành án hoặc Chánh án Tòa án căn cứ vào văn bản đề nghị của Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp hành án cư trú để ra quyết định hoãn thi hành án.

– Nếu người bị kết án đang bị bắt thì người nhà có thể làm đơn xin hoãn thi hành án gửi tới Chánh án tòa án nơi đã xét xử vụ án để xin hoãn thi hành án.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài VOV Giao Thông, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Điểm Mới Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

Khởi tố vụ án hình sự là nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm duy trì trật tự, không phụ thuộc vào ý muốn bất kỳ chủ thể nào. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, pháp luật quy định cho phép người bị hại, người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết (bị hại) lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Đây là những trường hợp mà hành vi phạm tội vừa xâm phạm trật tự xã hội, vừa xâm phạm đến thể chất, sức khoẻ, danh dự của người bị hại. Cụ thể, Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết”.
      Bên cạnh đó, nhà làm luật cũng cho phép người bị hại được quyền rút đơn yêu cầu khởi tố, cụ thể Khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 quy định “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”. Quy định này không giới hạn thời điểm rút đơn yêu cầu khởi tố của kể cả tại phiên tòa xét xử phúc thẩm. Đây là điểm mới của BLTTHS năm 2015 về rút đơn yêu cầu khởi tố theo yêu cầu bị hại, bởi lẽ khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm chỉ cho phép bị hại rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm. Như vậy, BLTTHS năm 2015 không giới hạn thời điểm rút đơn yêu cầu khởi tố của bị hại nhằm thể hiện sự tôn trọng ý chí của người bị hại và tạo điều kiện cho người phạm tội khắc phục hậu quả, hạn chế việc gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự không cần thiết có thể có đối với người bị hại. Tuy nhiên, quy định này còn bộc lộ một số vướng mắc như sau:
 
      Thứ nhất, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
      Điểm c Khoản 1 Điều 277 và điểm 1 Khoản 1 Điều 282 BLTTHS năm 2015 quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thẩm quyền đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp như: Bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác. Như vậy, khi bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ quyết định đình chỉ vụ án.
 
      Tuy nhiên, nếu bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử sẽ giải quyết như thế nào khi theo khoản 3 Điểu 326 BLTTHS năm 2015 quy định, các vấn đề của vụ án phải được giải quyết khi nghị án gồm: Vụ án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không; Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp; Có hay không có căn cứ kết tội bị cáo. Trường hợp đủ căn cứ kết tội thì phải xác định rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng; Hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự; Bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không; Án phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa; Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; Kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm. Như vậy, mọi vấn đề quan trọng Hội đồng xét xử đều giải quyết thông qua nghị án, tuy nhiên BLTTHS năm 2015 không quy định đình chỉ vụ án thông qua nghị án. Do đó, nếu bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử sẽ giải quyết như thế nào.
 
      Thứ hai, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
      Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa có thẩm quyền: Đình chỉ xét xử phúc thẩm hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Như vậy, BLTTHS năm 2015 không quy định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thẩm quyền đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Do đó, nếu trong giai đoạn này bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố ai có thẩm quyền đình chỉ vụ án và căn cứ đình chỉ là như thế nào.
 
      Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 quy định tại phiên tòa phúc thẩm Hội đồng xét xử có thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án trong hai trường hợp:
 
      - Trường hợp thứ nhất, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án khi: không có sự việc phạm tội và hành vi không cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này đã xuất hiện oan sai nên Hội đồng xét xử sẽ tuyên bị cáo không có tội. Tuy nhiên, đây không phải oan sai mà do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố. Do đó, khi bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố thì Hội đồng xét xử phúc thẩm không thể đình chỉ vụ án trong trường hợp này.
 
      - Trường hợp thứ hai, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án khi: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác[1]. Như vậy, BLTTHS năm 2015 cũng không quy định bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố là căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Do đó, nếu tại phiên tòa bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố thì Hội đồng xét xử sẽ giải quyết như thế nào khi BLTTHS năm 2015 không quy định đây là một trong các trường hợp hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
 
      Mặt khác, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng không thể căn cứ vào Khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 để đình chỉ vụ án. Bởi lẻ, hiện tại đã có một bản án sơ thẩm về hành vi phạm tội nên khi bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố thì chủ thể trên phải hủy bản án sơ thẩm để làm mất đi sự tồn tại của bản án này  sau đó mới đình chỉ vụ án.
Như vậy, mặc dù BLTTHS năm 2015 không giới hạn thời điểm rút đơn yêu cầu khởi tố của bị hại, song nếu bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án tại phiên tòa sơ thẩm và trong giai đoạn xét xử phúc thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử không thể đình chỉ vụ án như tinh thần Khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015.
 
      Do đó, thiết nghĩ trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành cần phải có văn bản hướng dẫn vấn đề này hoặc sửa đổi, bổ sung nội dung này như sau:
 
      Thứ nhất, nên bổ sung đình chỉ vụ án là một nội dung cần phải thông qua nghị án, để Hội đồng xét xử có thẩm quyền đình chỉ vụ án tại phiên tòa.
 
      Thứ hai, bổ sung thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án khi bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
 
      Thứ ba, bổ sung thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án khi bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án tại phiên tòa xét xử phúc thẩm cho Hội đồng xét xử phúc thẩm.
 
      Trên đây, là một vài ý kiến về nội dung bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố theo quy định BLTTHS năm 2015./.
 

 
 

Tác giả bài viết: Lương Thị Mỹ Hiền

Nguồn tin: VKSND huyện Phong Điền

Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra

Pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự, tuy nhiên việc tham gia vào quan hệ dân sự của pháp nhân luôn thông qua hành vi của người đại diện, thông qua hành vi của thành viên pháp nhân. Hành vi của người đại diện, của thành viên pháp nhân ngoài việc mang lại quyền cho pháp nhân thì cũng mang lại nghĩa vụ cho chính pháp nhân đó. Nếu những thành viên của pháp nhân gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc mà pháp nhân giao thì pháp nhân đó phải bồi thường thiệt hại.

Điều 618 Bộ luật dân sự  quy định:

“Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”

Khi xác định bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra cần chú ý:

Thứ nhất, chủ thể phải bồi thường trong trường hợp này là pháp nhân, do đó cần xác định rõ các điều kiện của một tổ chức được coi là có tư cách pháp nhân hay không theo quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự. Việc xem xét này có ý nghĩa quan trọng bởi nhiều trường hợp thành viên của một tổ chức gây thiệt hại nhưng tổ chức đó không có tư cách pháp nhân thì việc bồi thường không thuộc trường hợp này (Ví dụ: thành viên của tổ hợp tác khi thực hiện công việc của tổ hợp tác gây thiệt hại)

Thứ hai, “người của mình” theo quy định tại Điều 618  Bộ luật dân sự được hiểu là bất cứ thành viên nào của pháp nhân. Thành viên này có thể được pháp nhân tuyển dụng vào làm việc theo các quan hệ hợp đồng dài hạn, ngắn hạn, đang trong thời gian thử việc…

Thứ ba, thiệt hại do thành viên của pháp nhân gây ra theo đó pháp nhân phải bồi thường cho người bị thiệt hại liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ mà pháp nhân giao cho thành viên đó thực hiện.

Pháp luật quy định pháp nhân phải bồi thường thiệt hại khi thành viên của pháp nhân gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao cho nhằm xác định trách nhiệm quản lý con người, theo dõi công việc đối với thành viên thuộc pháp nhân đó. Ngoài ra, quy định pháp nhân phải bồi thường nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại.

Thành viên của pháp nhân gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc pháp nhân giao thì pháp nhân phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, nếu thành viên của pháp nhân có lỗi khi gây thiệt hại thì pháp nhân có quyền yêu cầu thành viên này phải hoàn trả. Khi xác định trách nhiệm hoàn trả của thành viên pháp nhân cần chú ý: điều luật chỉ quy định thành viên của pháp nhân hoàn trả cho pháp nhân “một khoản tiền theo quy định của pháp luật” chứ không quy định hoàn trả toàn bộ số tiền mà pháp nhân đã bồi thường. Do đó, cần căn cứ vào mức độ lỗi của thành viên pháp nhân khi gây thiệt hại để xác định số tiền hoàn trả cho hợp lý.

Tư Vấn Về Tội Giết Con Mới Đẻ

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

Tội giết con mới đẻ là trường hợp phạm tội của người mẹ do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết. Hình phạt cao nhất chỉ có hai năm tù, chưa kể hậu quả pháp lý về xã hội đối với người phạm tội rất nặng nề. 
Ngoài người mẹ của nạn nhân ra, không ai có thể là chủ thể của tội phạm này. Nhưng ngay cả là mẹ của nạn nhân cũng chỉ coi là chủ thể của tội này khi người mẹ vì ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà buộc phải giết hoặc vứt bỏ đứa con do mình mới đẻ ra. Nếu vì lý do khác mà giết hoặc vứt bỏ con do mình mới đẻ ra thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
 
Ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu là ảnh hưởng của tư tưởng cũ đã lỗi thời, không còn phù hợp với quan niệm về cuộc sống, lối sống hiện tại. Hay nói một cách khác, nó không còn phù hợp với ý thức xã hội đương thời. ra.
 
Thông thường, những đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ lúc mới đẻ là con ngoài giá thú. Tuy nhiên, cũng có trường hợp do tập quán lạc hậu của một vài địa phương ở miền núi cho rằng đứa con đầu lòng không phải là con chung của vợ chồng nên sau khi đứa trẻ ra đời, người mẹ đã bóp chết con mình. Cá biết, có những nơi do tư tưởng phân biệt con trai và con gái nên đã có trường hợp người mẹ đã đẻ đến lần thứ 7 vẫn là con gái nên sau khi đứa trẻ ra đời đã bóp chết.
 
Trường hợp đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ dẫn tới bị chết trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là trường hợp sau khi sinh con, người mẹ không có khả năng để nuôi con mình, như: bị mất sữa lại bị bệnh nặng hoặc trong hoàn cảnh khách quan ngặt nghèo khác.
 
Pháp luật quy định đứa trẻ sinh ra được bao nhiều ngày thì gọi là mới đẻ. Thực tiễn xét xử ở nước ta coi đứa trẻ mới đẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ là đứa trẻ sau khi ra đời dài nhất là 7 ngày. Kể từ ngày thứ 8 trở đi, nếu người mẹ giết con mình thì không được coi là giết con mới đẻ nữa.
 
Tuy nhiên, trong những năm gần đây do kinh tế - xã hội phát triển, các phương tiện thông tin đại chúng đã tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến tận làng xa xôi hẻo lánh. Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, các vụ giết trẻ sơ sinh hoặc vứt bỏ con mới đẻ đã hầu như không xảy ra.
 
Đứa trẻ mới đẻ bị giết hoặc bị vứt bỏ phải bị chết thì người mẹ mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết con mới đẻ, nếu người mẹ có hành vi trước đoạt tính mạng đứa trẻ hoặc có hành vi vứt con mới đẻ, nhưng đứa trẻ không bị chết thì chưa cấu thành tội giết con mới đẻ và như vậy tội giết con mới đẻ không có trường hợp phạm tội chưa đạt.
Mặc dù tôi lên án hành động của người mẹ này nhưng về pháp lý thì do đứa con chưa chết nên người mẹ chưa đủ yếu tố cấu thành tội giết con mới đẻ.

Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Dân Sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Trên thực tế có các dạng tranh chấp đất đai được phân loại như sau:

THỪA KẾ: tranh chấp phân chia tài sản thừa kế là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trong trường hợp thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật;
LY HÔN: tranh chấp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hoặc chia tài sản khi ly hôn có liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở;
THU HỒI ĐẤT: Tư vấn, đại diện cho khách hàng khiếu nại, khởi kiện hành chính đối với các quyết định hỗ trợ bồi thường tái định cư khi thu hồi đất, nhà ở;
CHUYỂN NHƯỢNG – CHO MƯỢN – TẶNG CHO: Giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng cho mượn, giao dịch thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng mua bán nhà ở;
GÓP VỐN: Tư vấn pháp lý và đại diện giải quyết tranh chấp về góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào doanh nghiệp;
Các nghiệp vụ pháp lý để giải quyết tranh chấp đất đai, nhà ở
Nghiên cứu các thông tin, tài liệu do Khách hàng cung cấp;
Nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan đến Vụ Việc;
Làm việc với Khách hàng để thu thập thêm thông tin về Vụ Việc (nếu cần thiết);
Tư vấn đánh giá tình trạng pháp lý và đề xuất phương án giải quyết Vụ Việc;
Tư vấn và hướng dẫn cho Khách hàng thu thập, chuẩn bị tài liệu và chứng cứ (nếu có) phục vụ cho việc giải quyết
Vụ Việc tại Tòa án cấp sơ thẩm/phúc thẩm theo quy định của pháp luật;
Tư vấn cho Khách hàng về thủ tục tố tụng sơ thẩm/phúc thẩm áp dụng cho Vụ Việc trong quá trình cung cấp dịch vụ;
Soạn thảo đơn khởi kiện, văn bản yêu cầu giải quyết tranh chấp, văn bản nêu ý kiến của Khách hàng nộp cho ủy ban nhân dân, Tòa án có thẩm quyền ở cấp sơ thẩm/phúc thẩm (trường hợp tòa án yêu cầu);
Tư vấn về việc xem xét khả năng Khách hàng thay đổi nội dung khởi kiện (cấp sơ thẩm), kháng cáo (cấp phúc thẩm) và gửi nội dung đã được sửa đổi đến Tòa án có thẩm quyền ở cấp sơ thẩm/phúc thẩm (nếu có);
Đọc, nghiên cứu, sao chụp các tài liệu liên quan đến Vụ Việc có trong hồ sơ của Tòa án theo quy định của pháp luật;
Tư vấn và hỗ trợ Khách hàng trong quá trình tham gia tố tụng cấp sơ thẩm/phúc thẩm;
Phân tích pháp lý đối với các chứng cứ và/hoặc lập luận của các bên có liên quan để đưa ra các lập luận và quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Khách hàng;
Cử người làm đại diện theo ủy quyền của Khách hàng để thay mặt Khách hàng tham gia tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm/phúc thẩm (nếu có yêu cầu);
Đại diện cho Khách hàng tham gia các buổi hòa giải theo quy định giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất;
Chỉ định luật sư làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Khách hàng tại phiên tòa sơ thẩm/phúc thẩm;
Thông báo, cập nhật quá trình giải quyết Vụ Việc và kết quả Vụ Việc cho Khách hàng bằng thư và/hoặc thư điện tử và/hoặc những phương tiện thông tin liên lạc khác.

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006