Luật Sư Tranh Tụng

Luật sư tư vấn và bào chữa tại tòa án

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

VPLS GIA ĐÌNH với đội ngũ luật sư có nhiều năm kinh nghiệm tham gia bảo vệ cho các khách hàng là doanh nghiệp và cá nhân tại Tòa án và Trọng tài trong các tổ chức tranh chấp, thương mại, hôn nhân & gia đình.

Tại  VPLS GIA ĐÌNH , có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa các bộ phận khác nhau trong công ty tận dụng thế mạnh về kinh nghiệm và kiến ​​thức chuyên sâu của các luật sư và chuyên gia pháp lý nhằm thu lại hiệu quả tối ưu in the perguration permissions of legal profit. Ngoài ra, với kinh nghiệm lâu năm làm việc trong lĩnh vực tranh tụng, các luật sư của  VPLS GIA ĐÌNH  còn thường xuyên chủ động tham khảo ý kiến ​​chuyên môn từ các tòa án và các cơ quan nhà nước có liên quan đến một dịch vụ the tool to be used to the best protection from the best protection for client.

Tuy nhiên, các luật sư tại  VPLS GIA ĐÌNH  luôn luôn có chủ phương pháp đưa ra giải quyết bằng các cơ chế hoặc Trọng tài là cuối cùng của phương pháp. Thay vào đó, các luật sư của  VPLS GIA ĐÌNH  luôn ưu tiên sử dụng các biện pháp phải giải quyết tranh chấp tiền tố (như bàn phán, nhờ bên thứ ba trung gian hòa giải, hoặc cảnh báo khởi động kiện ra Tòa án, Trọng tài hoặc cảnh báo hành trình phá sản đối với khách hàng nợ).

Với phương pháp tiếp cận cộng với kinh nghiệm và kỹ năng chuyên sâu trong lĩnh vực đàm phán và giải quyết tranh chấp không thông qua tòa án, Trọng tài, chúng tôi đã hỗ trợ thành công cho rất nhiều khách hàng trong công việc giải quyết các tranh chấp nhận mà không phải đưa ra tòa án hoặc trọng tài và thông qua đó, giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian, nỗ lực và chi phí cho khách hàng cũng như luật sư của khách hàng.

Show nay,  VPLS GIA ĐÌNH có  thể hỗ trợ khách hàng thông qua các phương thức giải quyết tranh chấp sau đây:

  • Tranh chấp quyết định tại Tòa án
  • Giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thương mại trong và ngoài nước
  • Giải quyết tranh chấp bên ngoài dự án (thương lượng, trung gian hòa giải, cảnh báo khởi động hoặc tiến hành các biện pháp pháp lý)
  • Thu hồi nợ thương mại.

Tại  VPLS GIA ĐÌNH , chúng tôi đang áp dụng nhiều gói dịch vụ khác nhau (ví dụ: thu phí không phụ thuộc vào kết quả công việc, thu phí ban đầu hợp với thu phí thành công, thu phí trên cở sở không thành công công không thu phí (Không thu phí - Không tính phí) thiết kế nhiều gói). Với lời đề nghị cấu trúc, khách hàng của chúng tôi luôn cảm thấy hài lòng vì họ được tự do lựa chọn phương án trả phí phù hợp với tính chất công việc và kế hoạch ngân sách của mình ....

CCHC4

<iframe width = "560" height = "315" src = "https://www.youtube.com/embed/vTNBX7nmO_I" title = "Trình phát video YouTube" frameborder = "0" allow = "speedrometer; autoplay; clipboard- ghi; phương tiện được mã hóa; con quay hồi chuyển; hình ảnh trong hình "allowfullscreen> </iframe>

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, hiểu biết, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến ​​thức rộng, kỹ năng chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công việc cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nhân viên phạm tội, và những người bị oan. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai, luật sư luôn đe dọa vì sự thù địch của bên đối lập. Do vậy để làm luật sư thì phải có tâm, có đạo, có tài và phải có tâm với nghề, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình, thì rất khó khăn khi hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan cho thân chủ, được giúp đỡ cho thân chủ, trả lại công bằng, công việc quản lý cho thân chủ nhằm góp phần trở lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn luật trên các kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài Truyền hình  Việt Nam (VTV),  Đài Truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam , Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang,  Truyền hình Quốc Hội,  Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và báo chí trên cả nước ... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa soạn cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh cao, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa ra, người dân tâm như vụ đ ại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank , Vụ cướp 35 Tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ án nhà 10 người tại TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các dịch vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái .. . và các dịch vụ khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp .… là công ty tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và bên ngoài nước  luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như đóng góp tích cực công bằng, đi tìm công ty không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

Thẩm quyền xét xử của Tòa án

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

Thẩm quyền xét xử của Tòa án theo loại việc

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo loại việc là tổng hợp các loại vụ việc về dân sự mà Tòa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Thẩm quyền về loại việc của Tòa án sẽ phân định với những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác.

Được quy định tại mục 1 Chương II từ các Điều 26 đến Điều 34 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 thì Tòa án có thẩm quyết giải quyết những tranh chấp dân sự trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, sở hữu trí tuệ…Trong đó, có sửa đổi, bổ sung một số quy định như:

– Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì không có lý do không có điều luật để áp dụng (Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Khi chưa có điều luật cụ thể để áp dụng thì Tòa án áp dụng tinh thần của Hiến pháp, tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, hoặc lẽ công bằng (Điều 43, 44, 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

– Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã sửa đổi bổ sung nhiều loại việc mới thuộc thẩm quyền của Tòa án được quy định trong các luật nội dung bảo đảm thống nhất, phù hợp với Hiến pháp và các luật khác như: Bộ luật dân sự, Bộ luật Hàng hải, Luật Hôn nhân & Gia đình, Luật doanh nghiệp, Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật lao động, Luật đấu thầu, Luật công đoàn….

– Trong quá trinh giải quyết vụ án dân sự nếu phát hiện văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái Hiến pháp, pháp luật thì Chánh án Tòa án có văn bản kiến nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản trái pháp luật (Điều 221 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015).

– Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có thẩm quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự. (Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)

Thẩm quyền xét xử của Tòa án theo cấp

  Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân

Việc xác định đúng thẩm quyền của Tòa án theo cấp chính là việc xác định xem đối với một vụ án dân sự cụ thể Tòa án nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền giải quyết. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp được quy định tại Điều 35, 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 dựa trên tính chất phức tạp của từng loại vụ việc, dựa vào điều kiện cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thực tế của đội ngũ cán bộ Tòa án.
Theo đó, thẩm quyền của Tòa án cấp huyện hiện nay được quy định: (i) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 Bộ luật này; (ii) Tranh chấp về kinh doanh thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật này; (iii) Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 Bộ luật này; (iiii) Những tranh chấp trên mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần ủy tác tư pháp cho cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện. Tuy nhiên, theo khoản 4 Điều 35 “Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con,…”, trường hợp này xuất hiện yếu tố đương sự ở nước ngoài nhưng vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.
Theo Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo loại việc trừ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Có thể nhận thấy thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh được phân định rõ ràng, tránh tình trạng vượt cấp hay thụ lý nhầm.

Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của các bên đương sự

Về nguyên tắc việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ phải được tiến hành dựa trên cơ sở bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được nhanh chóng, đúng đắn, bảo đảm việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự nhưng vẫn đảm bảo Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án thuận lợi nhất cho việc tham gia tố tụng của đương sự, là Tòa án có điều kiện thuận lợi nhất để giải quyết vụ án. Về căn bản các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ tại Điều 39 và Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã kế thừa các quy định trước đây.  Tuy nhiên, cũng có những điểm khác biệt nhất định.

Ví dụ như quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì theo hướng cụ thể hơn là “Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”. Quy định này của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 dường như đã đi theo hướng giới hạn hơn thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản chỉ đối với trường hợp có đối tượng tranh chấp là bất động sản chứ không bao hàm cả trường hợp tranh chấp về quyền tài sản liên quan đến bất động sản. Quy định này là hợp lý Tòa án nơi có bất động sản là Tòa án có điều kiện thuận lợi hơn cả trong việc tiến hành các biện pháp xác minh, đảm bảo cho việc giải quyết vụ kiện sát với thực tế sự việc như xem xét, thẩm định tại chỗ (xác minh thực địa); tiến hành định giá tài sản; thu thập tài liệu từ cơ quan nhà đất… Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa có một quy định có tính định nghĩa chính thức như thế nào là trường hợp “đối tượng tranh chấp là bất động sản” để khi vận dụng có thể bao quát và xác định chính xác Tòa án có thẩm quyền đối với các tranh chấp dân sự.
Ngoài ra, điểm b Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn…”. Như vậy, quyền tự định đoạt của các đương sự đã được pháp luật đề cao, tôn trọng, theo đó nếu bị đơn đồng ý với nguyên đơn về việc giải quyết vụ án tại Tòa án nguyên đơn cư trú làm việc thì Tòa án đó không được từ chối thụ lý. Tuy nhiên, đối với tranh chấp mà đối tượng tranh chấp là bất động sản thì các bên không được thỏa thuận mà vẫn là Tòa án nơi có bất động sản giải quyết.
Bên cạnh các quy định về xác định thẩm quyền như trên thì để đảm bảo thuận tiện cho nguyên đơn trong việc tham gia tố tụng, tại điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định nguyên đơn, người yêu cầu có thể lựa chọn Tòa án mà không cần sự đồng ý của bị đơn, người yêu cầu. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi, linh hoạt cho chủ thể khởi kiện thực hiện việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết cho mình, trao cho họ sự chủ động trong việc lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp trong một số trường hợp nhất định như: Nguyên đơn không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn; tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;…
Việc gửi đơn khởi kiện đến đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết là một yếu tố rất quan trọng để xem xét việc thụ lý vụ án. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện, nếu gửi đơn khởi kiện đến sai Tòa án có thẩm quyền xét xử theo cấp hay theo lãnh thổ thì sẽ phải chuyển đơn khởi kiện sang đúng Tòa án có thẩm quyền. Do đó, để tránh mất thời gian, công sức người khởi kiện phải hết sức chú ý đến vấn đề này để đảm bảo đơn khởi kiện của mình có thể được thụ lý nhanh chóng.....

CB1

<iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/3Fc1mGE3yQY" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống,Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ đốt nhà 10 người ở TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

 

Luật sư tư vấn quyền tranh tụng của đương sự ở giai đoạn khởi kiện

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

1. Tranh tụng là gì? 

Khái niệm tranh tụng được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Loại tố tụng này đã được áp dụng từ thời kỳ Hy lạp cổ đại. Ở thời đấy, nguyên cáo bị cáo đã được nhờ người thân của mình bào chữa trước tòa án. Sau đó nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”.Cùng với thời gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và từng bước được khẳng định và đến nay nó được áp dụng hầu hết ở các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ.

Ở Việt nam, có thể nhận xét tranh tụng trên các bình diện dưới đây:

Về mặt lập pháp: khái niệm tranh tụng chưa được chính thức ghi nhận hoặc giải thích trong các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta được ban hành từ năm 1945 đến nay.

Về mặt ngôn ngữ: theo Đại từ điển tiếng Việt năm 1998 thì tranh tụng có nghĩa là “kiện tụng”; còn theo Hán-Việt tự điển thì tranh tụng có nghĩa là “cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”.

Theo cách giải thích này, thì tranh tụng chính là quá trình giải quyết vụ kiện dân sự theo đó các đương sự được tranh luận về các yêu cầu, các chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đặc thù của tố tụng dân sự là các chủ thể tham gia tố tụng và chủ thể tiến hành tố tụng cùng nhau xác định sự thật khách quan trên cơ sở xem xét đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết khác nhau của vụ án và đối chiếu với các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Để có thể tìm ra chân lý, xác định sự thật khách quan về vụ án thì các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng dân sự phải phát huy tính chủ động, tích cực trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá các chứng cứ, tài liệu, các tình tiết liên quan một cách chính xác, khách quan và đầy đủ; đưa ra các lý lẽ, các quan điểm khác nhau, viện dẫn các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Tất cả các hoạt động như cung.

cấp chứng cứ, đưa ra các yêu cầu và phản yêu cầu, đối chất giữa các bên…trong giai đoạn trước khi xét xử cũng như tại phiên tòa đều có thể hiểu là quá trình tranh tụng. Như vậy, tranh tụng được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

Theo nghĩa rộng, tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ khi các đương sự thực hiện quyền khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì quá trình tranh tụng này sẽ bao gồm toàn bộ các giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử,xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm.

Theo nghĩa hẹp:tranh tụng là sự đối đáp, đấu tranh giữa các bên đương sự với nhau về chứng cứ, yêu cầu và phản đối yêu cầu của mỗi bên để từ đó nhằm chứng minh cho đối phương và Tòa án rằng yêu cầu và phản đối yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

2. Đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự ở giai đoạn khởi kiện

Đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự ở giai đoạn khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt nam.

Khởi kiện là bước khởi đầu của quá trình tranh tụng trong tố tụng dân sự, nếu tòa án trả lại đơn kiện cho người khởi kiện không thụ lý vụ án thì cũng có nghĩa là không có quá trình tranh tụng tiếp theo.

Khởi kiện được quy định tại Chương XII khởi kiện và thụ lý vụ án từ Điều 161 đến Điều 170 của Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015.

 “Điều 161.Quyền khởi kiện vụ án

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”

Từ quy định trên của  pháp luật chúng ta có thể thấy người tự cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị chủ thể khác xâm phạm có thể tự mình khởi kiện yêu cầu tòa án bảo vệ quyền lợi bị xâm phạm hoặc là thông qua người đại diện hợp pháp của mình khởi kiện vụ án.

Pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành quy định rất rộng chủ thể có quyền khởi kiện để bảo vệ tối đa quyền lợi của công dân Việt Nam khi họ bị xâm phạm.

Người khởi kiện muốn yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình thì cần phải có đơn khởi kiện và trong đơn cần phải trình bày đầy đủ chi tiết những nội dung liên quan, những yêu cầu và những chứng cứ chứng minh cho việc quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Thông qua nội dung của đơn khởi kiện chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy chủ thể khởi kiện đã tự mình hoặc thông qua người đại diện thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của pháp luật khi đưa ra các nội dung, các yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho việc bị chủ thể khác xâm hại.

Ngoài ra để đảm bảo quyền tranh tụng của các chủ thể khác Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 cũng đã quy định cho các tổ chức khác khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước (điều 162, Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015).

Vấn đề thụ lý vụ việc dân sự theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hiện nay cũng đang có một số tồn tại nhất định:

Bộ luật TTDS 2015 quy định tại điều 174 về nhiệm vụ của Tòa án ngay sau khi thụ lý vụ án trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án tòa án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án biết việc tòa án đã thụ lý vụ án. Tuy nhiên, văn bản thông báo của Tòa án chỉ nêu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cùng tên tài liệu chứng cứ kèm theo.

Do vậy, để người nhận được thông báo nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông báo là rất khó bởi họ phải đến tòa án “xin phép” Tòa án cho chụp, sao chép các tài liệu của nguyên đơn. Trong thực tế không phải Tòa án nào cũng tạo điều kiện cho họ sao chụp tài liệu, chứng cứ. Vấn đề này đã dẫn đến việc đương sự không thực hiện được quyền tranh tụng của mình như quyền sao chụp tài liệu, quyền được biết chứng cứ do phía bên kia cung cấp để từ đó đưa ra các yêu cầu phản tố phù hợp và các chứng cứ thích hợp để chứng minh.

Khoản 2 điều 174 BLTTDS 20015 quy định về hậu quả pháp lý khi người nhận thông báo không nộp cho Tòa án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu, nhưng lại chưa quy định rõ hậu quả là gì? Theo ý kiến của nhóm hậu quả ở đây có thể hiểu theo hướng bất lợi cho người được thông báo  mà không có văn bản trả lời Tòa án. Sự im lặng ở đây có thể xem là đồng ý vì đã không có sự phản đối đối với những yêu cầu của người khởi kiện. Tòa án sẽ giải quyết vụ án vắng mặt một bên theo những tài liêu chứng cứ mà người khởi kiện đưa ra nhằm đảm bảo quyền tranh tụng của người khởi kiện. Do đó, pháp luật cần quy định rõ hơn về vấn đề này

Đương sự có quyền đưa ra yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự. Yêu cầu là cơ sở để phát sinh tranh tụng tại Tòa án, các đương sự không chỉ có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ mà còn có quyền thay đổi bổ sung yêu cầu. Tuy nhiên quyền thay đổi bổ sung yêu cầu này không được vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Quy định này nhằm đảm bảo quyền tham gia tranh tụng của bên đương sự đối lập.

Quyền chấp nhận một phần, toàn bộ yêu cầu của đương sự phía bên kia, quyền rút yêu cầu và thỏa thuận về việc giải quyết vụ án của đương sự quyết định đến phạm vi tranh tụng. Việc đương sự chấp nhận yêu cầu hay rút yêu cầu đều dẫn đến việc các đương sự không phải tranh tụng về yêu cầu đó nữa. Còn khi các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án thì những vấn đề các đương sự thỏa thuận được với nhau thì cũng không tranh tụng nữa mà chỉ tranh tụng với nhau về những vấn đề có tranh chấp và chứng cứ chứng minh không thống nhất. 

Điều 161 – 178 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015đã quy định khá chi tiết về việc khởi kiện và thụ lý vụ án … nhưng bên cạnh đó vẫn còn một khó khăn và bất cập trong việc áp dụng và thực tiễn thì một số chủ thể có quyền và lợi ích bị xâm phạm gặp rất nhiều khó khăn trong việc để đơn khởi kiện của mình được Tòa án thụ lý.

3. Đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử

Đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

Quyền tranh tụng của đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử thể hiện rõ nhất ở vấn đề đương sự cung cấp, thu thập tài liệu chứng cứ, chứng minh để giải quyết vụ án dân sự.

Trong quá trình tranh tụng, các bên đương sự liên tục trao đổi các chứng cứ, tranh luận với nhau về các tình tiết sự kiện liên quan đến vụ án để bảo vệ quyền lợi của mình. Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 đã có những quy định cụ thể về chứng minh và chứng cứ, theo đó nghĩa vụ chứng minh trước hết và chủ yếu thuộc về đương sự Đương sự có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhưng phải đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp và “nếu phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh”( Điều 79 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015). Quy định này đã thể hiện rõ bản chất của tranh tụng đó là sự trao đổi, phản bác chứng cứ, lập luận giữa hai bên đương sự trên có sở các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình.

Như vậy, người đưa ra yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước; họ phải xuất trình các chứng cứ, đưa ra lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, đồng thời họ phải chỉ ra quy định của pháp luật cho phép chấp nhận yêu cầu của họ (tính hợp pháp của yêu cầu). Khi bên đưa ra yêu cầu đã chứng minh được tính có căn cứ và tính hợp pháp cho yêu cầu của mình thì bên phản đối yêu cầu phải đưa ra chứng cứ, lý lẽ để chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ. Điều đó cho thấy, theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 thì nghĩa vụ chứng minh không chỉ đặt ra với bên khởi kiện mà đặt ra với cả bên bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn.

Quy định này thể hiện sự bình đẳng, ngang bằng về nghĩa vụ chứng minh, không có loại đương sự nào được miễn trừ nghĩa vụ chứng minh, dù đương sự đó khởi kiện bảo vệ lợi ích của mình hay lợi ích chung hoặc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng không được miễn trừ nghĩa vụ này. Do đó, nếu bên đương sự có nghĩa vụ đưa chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ. Hậu quả đó là, nếu họ là nguyên đơn sẽ bị bác yêu cầu, nếu là bị đơn sẽ bị xử thua kiện, sẽ phải chấp nhận các yêu cầu đã được chứng minh của nguyên đơn.

Nhưng việc thu thập chứng cứ của các bên đương sự không phải lúc nào cũng dễ dàng bởi gặp phải những khó khăn từ phía cá nhân, cơ quan tổ chức có thẩm quyền. Điều 7 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan tổ chức có thẩm quyền, nếu không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án biết và nêu rõ lý do. Trên thực tế, có rất nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền không thực hiện đúng trách nhiệm này khi đương sự có yêu cầu và cũng không trả lời bằng văn bản cụ thể cho đương sự biết mà chỉ từ chối bằng cử chỉ, lời nói.

Điều 80 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định những tình tiết sự kiện không cần phải chứng minh, điều này đồng nghĩa với việc các đương sự không phải tranh tụng về các tình tiết, sự kiện đó nữa, phạm vi tranh tụng được thu hẹp hơn, đương sự chỉ tập trung vào các tình tiết, sự kiện còn chưa rõ, mâu thuẫn.

BLTTDS 2015 không quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự, trên thực tế có thể dấn đến việc đương sự lơi dụng trì hoãn hoạt động tố tụng. ví dụ như trường hợp ở trước phiên tòa sơ thẩm đương sự hoàn toàn có khả năng cung cấp chứng cứ đó nhưng lại không cung cấp mà lại cung cấp tại phiên tòa sơ thẩm khi đang tranh luận làm cho tòa án phải hoãn phiên tòa nếu như chứng cứ đó cần có thời gian xác minh rõ. Hay việc đương sự không cung cấp chứng cứ ở giai đoạn sơ thẩm mà đến giai đoạn phúc thẩm mới đưa ra chứng cứ đó làm cho án sơ thẩm bị sửa hoặc hủy để xét xử lại.

4. Quyền tranh tụng trong xét xử của đương sự

Tóm tắt câu hỏi:

Chào Luật sư! Cha tôi nộp đơn kiện ra tòa án đề nghị tòa hủy quyết định của UBND quận. Vậy khi ra tòa thì tôi có được tranh tụng trong xét xử hay tòa xem xét hồ sơ, chứng cứ rồi xét xử luôn. Cảm ơn Luật sư!

Luật sư tư vấn:

Điều 18 Luật Tố tụng hành chính 2010 quy định:

1. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của luật này.

2. Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi tòa án thụ lý vụ án hành chính và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của luật này.

3. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định của luật này. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.

Từ quy định này, cho thấy, pháp luật quy định việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Theo đó, bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử.

Ngoài ra, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ. Pháp luật phải áp dụng các chứng cứ, quan điểm này để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp hoặc bác bỏ yêu cầu của đương sự.

Như vậy, tại phiên tòa, cha bạn có quyền được tranh tụng, trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu của mình theo quy định nêu trên.

5. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử

Tóm tắt câu hỏi:

Luật sư cho em hỏi, những biểu hiện và ý nghĩa, thực trạng của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử theo Điều 13 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014.

Luật sư tư vấn:

Điều 13 Luật tổ chức tòa án nhân 2014: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử

“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của luật tố tụng.”

Tranh tụng là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

-Thứ nhất, quy định nguyên tắc tranh tụng đã thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã quy định: “… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng của phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời gian quy định”. Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu: “… Tòa án nhân dân tối cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”.

-Thứ hai, quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử.

Những quy định pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính hiện hành đã và đang phát huy hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả, việc tranh luận tại phiên tòa bảo đảm tính dân chủ, khách quan. Tuy nhiên so với tình hình đặt ra thì hoạt động tranh tụng chưa đáp ứng yêu cầu. Nguyên nhân của tình hình trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của pháp luật về tranh tụng và bảo đảm tranh tụng chưa rõ ràng, cụ thể nên hiệu lực chưa cao.

-Thứ  ba, việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 là tiền đề để xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng: Hiến pháp là đạo luật gốc, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất. Do vậy, khi Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014 quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng như vậy thì những quy định trong bộ luật, luật, các văn bản dưới luật chưa rõ ràng, không thống nhất phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, tạo sự thống nhất trong việc vận dụng pháp luật, đặc biệt đòi hỏi cần xây dựng quy định cụ thể về phương thức bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.

Việc thực hiện các chức năng tố tụng còn nhiều bất cập; việc xét hỏi, tranh luận tại phiên toà chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng…Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trên bao gồm nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, có thể kể đến là do những hạn chế trong quy định của pháp luật; do trình độ chuyên môn và kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư… từ đó đòi hỏi phải có quy định cụ thể nhằm chế hóa được đường lối, tư tưởng của Đảng về cải cách tư pháp....

BK77

LS TRẦN MINH HÙNG

<iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/yjz5nmlePNs" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>

 

Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. Chúng tôi là luật sư sẽ hội đủ những điều kiện trên và tiêu chí của chúng tôi luôn cố gắng để hoàn thiện đầy đủ những yếu tố trên. Chúng tôi quán triệt các luật sư trong văn phòng cũng như công tác viên, cộng sự, nhân viên đều phải rèn luyện đạo đức và tài năng để hoạt động đúng tiêu chí mà chúng tôi quan niệm theo đuổi trong suốt quá trình hành nghề.

Chúng tôi là Văn phòng Luật sư Gia Đình - Đoàn Luật sư TP.HCM tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn giỏi, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

         Tên Luật sư Gia Đình không có nghĩa là chúng tôi chỉ chuyên về gia đình mà tên Luật sư Gia Đình là do Văn phòng luật sư chúng tôi bao gồm các luật sư xuất thân từ trong các gia đình yêu và đam mê nghề luật nên ý tưởng manh nha của các luật sư sáng lập đặt tên là Văn phòng luật sư Gia Đình.

          Với hàng chục nghìn khách hàng được tư vấn về pháp luật tại Luật Sư Gia Đình, chúng tôi là một trong những luật sư tiên phong trong việc giúp các cá nhân, doanh nhân đạt được kết quả tốt nhất và khởi sự kinh doanh nhanh chóng và thuận lợi. Luật sư Gia Đình- "Hãng luật uy tín của bạn" là khẩu hiệu mà Luật sư Gia Đình chọn làm phương châm xuyên suốt trong mọi hoạt động hành nghề. Mỗi khách hàng đối với chúng tôi là một người bạn, một vinh dự quý báu và đáng trân trọng nên chúng tôi có nghĩa vụ phục vụ tốt nhất cho khách hàng. Mỗi hoạt động mà Văn phòng Luật sư Gia Đình dành cho khách hàng của mình cũng là để góp phần gìn giữ và xây dựng những danh hiệu quý báu ấy và bảo đảm được mong muốn, quyền lợi của khách hàng góp phần bảo vệ công lý nói chung. Luật sư Gia Đình luôn coi trọng chữ “Tâm” và “Đức” của nghề luật sư, chữ "tâm" là cốt lõi của nghề luật sư và mục tiêu chúng tôi hướng tới nhằm góp phần cho sự bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Chúng tôi luôn đặt lợi ích và quyền lợi của khách hàng lên hàng đầu. Luật sư Gia Đình là một trong những luật sư uy tín tại Việt Nam và là đối tác đáng tin cậy của nhiều doanh nghiệp, cá nhân và gia đình trong và ngoài nước. Tại đây tập trung các Luật sư có đạo đức và luật sư chuyên nghiệp trong chuyên môn cũng như trong cách giải quyết công việc, hồ sơ cho khách hàng hiệu quả. Với 12 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp lý và công tác tại nhiều thành phố khác nhau cùng với kinh nghiệm, học hỏi nhiều luật sư, bạn bè đang làm việc tại nhiều thành phố trên thế giới…Hãng luật Gia Đình hội đủ những phẩm chất, kỷ năng, kinh nghiệm về chuyên môn và đạo đức đủ khả năng giải quyết và tranh tụng những vụ việc,các tranh chấp  phức tạp và khó xảy ra tại các thành phố lớn ở Việt Nam. Hơn nữa, chúng tôi luôn làm việc với các cơ quan như Tòa án, Viện kiểm sát, Công an Điều tra, Sở tư pháp, Sở kế hoạch đầu tư, Cơ quan thi hành, các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các luật sư đồng nghiệp…nhằm đạt được công việc hiệu quả và nhanh chóng cho khách hàng...

        Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ TÂM của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước  tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), SCTV, THĐN, THQH, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang, Truyền hình Quốc Hội... Báo pháp luật TP.HCM, Báo đời sống và pháp luật, báo Đời sống và tuổi trẻ,báo Dân Trí, Báo VNxpress, Báo Soha, Kênh 14, Một thế giới, Báo tin tức Việt nam– Các tạp chí như Tiếp Thị Gia Đình, Báo điện tử, báo Infonet,  VTC NEW, Báo Mới, Báo gia đình Việt nam, Báo ngày nay, Báo người lao động, Báo Công an nhân dân, Kiến thức ngày nay, Báo Gia đình và xã hội, Tầm nhìn, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện…là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, các vụi Giết Người, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành- Dầu Dây, Chống dịch mùa Covit, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

              Chúng tôi đã giải quyết nhiều vụ tranh chấp và từng tư vấn pháp luật thường xuyên cho nhiều công ty như: Công ty chế biến trái cây Yasaka (Nhật bản), Công ty Nam Chê (Hàn Quốc), Công ty Cổ phần thương mại dịch vụ Bến Thành (Cổ phần nhà nước), Công ty TNHH Kỹ Thuật Năng Lượng, Công ty Vina Buhmwoo (Hàn Quốc), Công ty ECO SYS Kim Trường Phát (Hàn Quốc), Công ty cổ phần BĐS BiG Land, Công ty TNHH dược phẩm  AAA, Công ty TNHH Hanwa Kakoki Việt Nam (Nhật Bản), Công ty TNHH DV BV Ti Tan, Công ty CP Chuỗi Nông sản Sài gòn, Công ty CP BĐS Happy Land S, Công ty CP SG Xây dựng (cổ phần hóa nhà nước), Công ty CP Maduphar, Công ty Thủy sản Đắc Lộc (Phú Yên)…và nhiều công ty khác.

Là văn phòng luật chuyên tư vấn luật trên báo chí các sự kiện nổi bật, nóng hổi trên cả nước nhằm tuyên truyền pháp luật cho mọi người và thể hiện được sự uy tín, kinh nghiệm kiến thức và thực tiễn của chúng tôi. Chúng tôi đã bào chữa cho rất nhiều vụ án được báo chí và người dân quan tâm.

           Ngoài lĩnh vực hoạt động, Văn phòng Luật sư Gia Đình còn tham gia nhiều hoạt động từ thiện, tư vấn pháp luật miễn phí cho đối tượng chính sách, người nghèo, bào chữa, bảo vệ miễn phí cho nhiều đối tượng... Khách hàng đến với Văn phòng luật sư Gia Đình luôn nhận được sự quan tâm, chia sẻ sâu sắc về mọi mặt trong đời sống của các Luật sư Gia Đình.

            Văn Phòng Luật sư Gia Đình xin gửi lời chúc sức khoẻ và cảm lời cảm ơn sâu sắc đến với tất cả Quý khách hàng đã và đang hợp tác với chúng tôi trong thời gian qua. Chúng tôi tin rằng khi đến với Luật sư Gia Đình quý khách sẽ nhận được được những dịch vụ pháp lý hoàn hảo và đáng tin cậy, sự tận tâm, tận tình của chúng tôi. Với đội ngũ Luật sư và các chuyên gia dày dặn kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật là yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của chúng tôi. Yếu tố quyết định cho sự thành công bền vững của Luật sư Gia Đình chính là sự chuyên nghiệp, uy tín, trung thực đối với khách hàng và không ngừng học hỏi, nâng cao chuyên môn và đạo đức của Luật sư trong nước và Luật sư thế giới thể hiện trong việc phân công đội ngũ nhân sự phù hợp, phát huy tốt nhất nhân tố con người.

Là văn phòng luật chuyên tư vấn luật trên báo chí các sự kiện nổi bật, nóng hổi trên cả nước nhằm tuyên truyền pháp luật cho mọi người và thể hiện được sự uy tín, kinh nghiệm kiến thức và thực tiễn của chúng tôi.

Chúng tôi chuyên tư vấn và thực hiện dịch vụ tại các tỉnh khắp trên cả nước như tư vấn tại Bình Dương, TP.HCM, đồng nai, Long An, Vũng Tàu, Hà Nội, Nha Trang, biên hòa, Đà Nẵng, Vinh…

Đại diện Văn phòng Luật sư Gia Đình

 

NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ VIỆT NAM BÊN THỀM HỘI NHẬP

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ VIỆT NAM BÊN THỀM HỘI NHẬP
Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác bởi lẽ ngoài những yêu cầu về trình độ và kiến thức chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp luật sư. Đây là một nét đặc thù rất riêng của nghề luật sư và điều đó tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư.  

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy của xu thế toàn cầu hoá, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về luật sư nói riêng đã không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển đội ngũ luật sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật sư; đồng thời tiếp tục thực hiện tốt Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đối với yêu cầu cấp bách đòi hỏi đất nước nhằm có một đội ngũ luật sư tài năng và đạo đức như lời của nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã phát biểu tại Hội nghị tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW và triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW: “…Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà…đội ngũ luật sư cần xác định rõ vai trò, vị trí của mình để phấn đấu vươn lên không chỉ về trình độ nghề nghiệp mà còn cả trong việc giữ gìn đạo đức nghề nghiệp”. Điều đó cho thấy những vấn đề liên quan đến luật sư và tổ chức, hoạt động luật sư, đặc biệt là kỹ năng hành nghề của luật sư luôn được Đảng và nhà nước quan tâm. Theo đó, việc hành nghề của luật sư hôm nay đòi hỏi phải có sự nâng cao và đổi mới về kỹ năng hành nghề để bắt kịp những yêu cầu của tiến trình đổi mới và hội nhập. Một trong các vấn đề xin được đề cập để các luật sư chúng ta cùng suy nghĩ và trao đổi trong hội thảo hôm nay là nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư Việt Nam bên thềm hội nhập.

Có thể nhận thấy rằng trong hệ thống tư pháp của Việt Nam hiện nay đã hình thành hai loại thủ tục tố tụng cơ bản và đặc thù – đó là tố tụng hình sự và tố tụng phi hình sự bao gồm tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Điều này cho thấy khi hành nghề, các luật sư cũng tham gia tranh tụng dưới hai hình thức chủ yếu là tranh tụng trong các VAHS và tranh tụng trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động và hành chính (được gọi chung là tranh tụng trong các vụ án phi hình sự). Đối với việc luật sư tham gia tranh tụng trong các VAHS thì mục đích chủ yếu nhất và thường xuyên nhất là nhằm bào chữa cho hành vi phạm tội của bị cáo trên cơ sở đó để Toà án có sự ghi nhận về quan điểm của luật sư mà đưa ra một bản án có lợi cho bị cáo. Ngoài ra, các luật sư có thể tham gia tranh tụng trong các VAHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác bị xâm hại là cá nhân hay tổ chức. Tuy nhiên sự tham gia của các luật sư trong trường hợp này không đồng nhất với sự tham gia của luật sư trong các vụ án phi hình sự bởi vì cái đích của luật sư hướng tới trong quá trình tranh tụng ở các vụ án phi hình sự là quyền lợi cụ thể đương sự trên cở sở yêu cầu của đương sự cần được giải quyết trong vụ án đó. Mặc dù khác biệt như vậy nhưng các kỹ năng tranh tụng của luật sư trong vụ án hình sự hay phi hình sự đều có các bước tiến hành mang tính chuyên nghiệp và được mô thức hoá cao đối với các công việc trước khi tham gia phiên toà, trong và sau khi tham gia phiên toà các cấp.

Hiện nay, bên cạnh hoạt động trợ giúp pháp lý tham gia các phiên toà hình sự theo sự chỉ định của Toà án trong các trường hợp pháp luật hình sự quy định, nhu cầu của bị can, bị cáo cũng như các đương sự cần đến sự giúp đỡ của luật sư trong các vụ án hình sự, phi hình sự ngày càng nhiều với những yêu cầu đa dạng, không giống nhau. Chúng ta biết rằng kỹ năng của luật sư khi bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng mà có thể đánh giá được sự thành công là những tác động và ảnh hưởng của luật sư xuyên suốt trong tiến trình tố tụng để duy trì quan điểm bào chữa, quan điểm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân luật sư, từ đó làm cho Toà án có quan điểm xét xử công bằng, nghiêm minh, tuyên án có lợi tối đa cho thân chủ của mình. Do vậy, trải qua các giai đoạn từ khi khách hàng tìm đến mình – chuẩn bị tham gia phiên toà – tham gia phiên toà xét xử các cấp và sau phiên toà thì luật sư cần lưu ý những vấn đề liên quan đến kỹ năng tranh tụng như sau:

I – NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TRƯỚC KHI THAM GIA PHIÊN TOÀ

Trước khi tham gia phiên toà, kỹ năng tranh tụng của luật sư thể hiện trong giai đoạn này là một khâu quan trọng, có ý nghĩa rất lớn đối với sự thành công của việc bào chữa hay bảo vệ quyền lơị cho khách hàng. Có rất nhiều công việc phải làm thông qua kỹ năng tác nghiệp, hành nghề của luật sư trong giai đoạn này. Tuy nhiên trong xu hướng tranh tụng hiện nay, chúng tôi chỉ có một vài ý kiến tham gia đối với một số vấn đề cần đổi mới sau đây:

Thứ nhất, hiện nay trình độ nhận thức pháp luật của khách hàng đã có sự thay đổi nâng cao hiểu biết hơn rất nhiều do những thay đổi và các điều kiện tác động của xã hội và cộng đồng. Điều này bắt buộc các luật sư phải chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng của mình. Vẫn biết rằng người hành nghề luật sư cần am hiểu về mọi lĩnh vực pháp luật, nhưng trong xu hướng hội nhập hiện nay các vụ án hình sự và phi hình sự rất đa dạng, xuất hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống cho nên luật sư cần xác định cho mình lĩnh vực tranh tụng chuyên sâu để hành nghề. Bên thềm hội nhập, chúng ta cũng không thể đi khác với xu hướng hành nghề của các luật sư trên thế giới hiên nay. Luật sư của các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law hay Common Law đều hành nghề theo hướng chuyên môn hoá một lĩnh vực cụ thể. Ở các nước đó chúng ta không xa lạ gì khi nghe đến tên gọi “luật sư hình sự”, “luật sư về thừa kế”, “luật sư về hôn nhân & gia đình”, “luật sư về ngân hàng”, “luật sư về chứng khoán”, “luật sư về bảo hiểm”, “luật sư về bất động sản”, thậm chí có “luật sư về bồi thường thiệt hại”, “luật sư chuyên về tai nạn giao thông”….Kỹ năng hành nghề đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư sẽ tác động trực tiếp đến quyền lợi của thân chủ, bởi vậy chỉ khi luật sư nhận vụ việc có kiến thức chuyên sâu, hiểu biết tường tận, cập nhật được toàn bộ các các quy định pháp luật về một lĩnh vực cụ thể để ứng dụng chúng như một thói quen, bên cạnh đó là sự kết hợp kinh nghiệm bản thân thường xuyên tham gia tranh tụng trong các vụ án thuộc lĩnh vực cụ thể đó thì mới có thể cho phép người luật sư ấy được khách hàng đặt trọn niềm tin. Khi nhận vụ việc từ khách hàng, luật sư với kiến thức thức chuyên sâu, kinh nghiệm tranh tụng cũng đã phần nào giúp cho thân chủ nhìn thấy yêu cầu của họ sẽ được các cơ quan tư pháp giải quyết tới đâu trên cơ sở phân tích các quy định hiện hành, chưa kể đến các kỹ năng tác nghiệp với các chủ thể khác liên quan khi hành nghề. Mặt khác, khách hàng của luật sư hôm nay không chỉ dừng lại là những khách hàng mang quốc tịch Việt Nam mà họ còn là khách hàng mang quốc tịch của nhiều quốc gia khác. Do vậy, trong bối cảnh hiện nay, các luật sư cần chủ động, linh hoạt hoàn thiện mọi điều kiện hành nghề cần thiết cho bản thân để mở rộng đối tượng phục vụ cho mình, hướng tới phục vụ cho cả các khách hàng nước là cá nhân, tổ chức nước ngoài.

Ngoài ra, bên cạnh việc chuyên môn hoá lĩnh vực pháp luật cụ thể để nâng cao kỹ năng tranh tụng, luật sư phải căn cứ vào lĩnh vực chuyên sâu hành nghề của mình là gì để đáp ứng yêu cầu cập nhật kiến thức pháp luật mới, đặc biệt là pháp luật quốc tế liên quan cũng như các kiến thức ngoại ngữ, tin học. Điều này sẽ giúp cho luật sư hướng tới cơ hội tham gia tranh tụng tốt tại các phiên toà của các vụ việc có yếu tố nước ngoài hay xét xử tại nước ngoài. Xu hướng hội nhập buộc các luật sư trẻ của chúng ta phải tự hoàn thiện đầy đủ các kiến thức chuyên môn cũng như khả năng ngoại ngữ, tin học để tự tin hành nghề, độc lập tranh tụng tại bất cứ đâu, cho dù nơi xét xử nằm ngoài biên giới Việt Nam. Chúng ta sẽ không thể có các luật sư tranh tụng các vụ kiện kinh doanh – thương mại giỏi trên thương trường quốc tế nếu luật sư của chúng ta không có khả năng ngoại ngữ lưu loát khi tranh tụng, không hiểu biết về quy tắc UNCITRAL, về pháp luật của WTO liên quan tới GATT, GATS, TRIMS, TRIPS…cũng như pháp luật của các nước có chủ thể tham gia tố tụng hữu quan . Ngày nay, hình ảnh nhiều luật sư sử dụng thành thạo các phần mềm ứng dụng của công nghệ thông tin như truy cập Website, gửi nhận thư điện tử, truyền dữ liệu là hình ảnh, âm thanh…..không còn xa lạ với chúng ta khi nhìn thấy họ tác nghiệp và hành nghề. Vì vậy, việc đầu tiên để các luật sư nâng cao kỹ năng tranh tụng của mình trong các vụ án hình sự hay phi hình sự là yêu cầu chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, hoàn thiện kiến thức chuyên môn, khả năng ngoại ngữ và tin học trước khi tiếp nhận vụ việc từ khách hàng và chuẩn bị tham gia phiên toà.

Thứ hai, bên cạnh việc chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, giỏi chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, tin học luật sư cần phải đổi mới kỹ năng tiếp xúc và làm việc với khách hàng khi nhận bào chữa hay bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Để làm được điều này, các VPLS cần giúp cho các luật sư các Form mẫu giấy tờ rõ ràng, mang tính chuyên nghiệp, đơn giản mà không mang nặng tính hành chính để giúp cho việc giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng được nhanh chóng, thuận tiện. Bên cạnh đó, cũng cần công khai Bảng tính mức thù lao, danh sách các luật sư được chuyên môn hoá trong từng lĩnh vực tranh tụng cụ thể, tiến trình tố tụng để giải quyết yêu cầu của khách hàng để khách hàng được biết trước khi ký Hợp đồng. Kỹ năng tiếp xúc khách hàng hiện nay buộc luật sư phải kết hợp và coi khách hàng như một người cộng sự trong quá trình giải quyết vụ việc của họ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc luật sư cần có sự nhận thức mới về quan hệ giữa luật sư với khách hàng. Đã qua đi cái thời mà khách hàng chẳng hiểu biết và cũng không cần biết về vụ việc, miễn là giao “trọn gói” cho luật sư thực hiện yêu cầu giúp đỡ pháp lý của mình. Tham gia tranh tụng hôm nay, luật sư chúng ta cần phải nhận thức là chúng ta đang “hợp tác” với khách hàng chứ không phải khách hàng đang “nhờ vả” chúng ta để chúng ta cho mình cái quyền quyết định mọi thứ không cần hỏi ý kiến khách hàng ngay cả khi họ là những người trình độ văn hoá thấp, thiếu hiểu biết pháp luật. Cho nên, luật sư trong quá trình trao đổi với khách hàng cần thông tin thường xuyên về tình hình công việc luật sư đang thực hiện, đặc biệt cần phải làm cho khách hàng nhận diện bản chất của vụ việc một cách trung thực, rõ ràng. Đối với những thông tin không cần thiết có ý kiến của khách hàng hoặc được xử lý trên cơ sở luật định, cần thông qua trợ lý luật sư hoặc tự mình luật sư có thể gửi thư điện tử, fax thông báo cho họ biết; còn đối với các thông tin mới phát sinh cần có sự trao đổi trực tiếp và luật sư cần biết ý kiến, quan điểm chính thức của khách hàng thì bắt buộc luật sư phải mời khách hàng tới làm việc tại VPLS để thống nhất theo quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Cuộc sống hôm nay trong điều kiện của nền kinh tế thị trường đa thành phần, mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng trở nên rất nhạy cảm bởi một bên yêu cầu dịch vụ pháp lý và một bên thực hiện dịch vụ ấy. Nếu chúng ta không có sử đổi mới nhận thức về quan hệ của chúng ta với khách hàng và không làm tốt tinh thần “hợp tác” của mối quan hệ ấy trên cơ sở luật định thì khó tránh khỏi các vụ khách hàng khiếu nại, khởi kiện luật sư, yêu cầu luật sư bồi thường thiệt hại…mà không cần biết luật sư có lỗi hay không hoặc có hay không thiệt có thực tế!

Thứ ba, một vấn đề nữa cần được đặt ra để nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư hiện nay là đổi mới phương pháp nghiên cứu Hồ sơ vụ án và đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ. Xuất phát từ yêu cầu của thân chủ mà luật sư xác định trọng tâm công việc cho mình để tham gia tranh tụng và đi vào nghiên cứu hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, luật sư cần phải biết rút ngắn thời gian nghiên cứu hồ sơ tại cơ quan Toà án bằng việc vận dụng các phương tiện kỹ thuật như dùng máy ảnh kỹ thuật số, máy scan để tăng khoảng thời gian nghiên cứu sâu hơn tại VPLS hoặc gia đình khi có điều kiện. Khi nghiên cứu hồ sơ, đòi hỏi các luật sư của chúng ta hôm nay phải có sự thay đổi về đánh giá chứng cứ. Trong tố tụng hình sự, các cơ quan và những người tiến hành tố tụng giữa vai trò chính trong việc thu thập chứng cứ, còn trong tố tụng phi hình sự (tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính) thì đương sự lại giữ vai trò chính trong việc thu thập và cung cấp chứng cứ cho cơ quan và người tiến hành tố tụng. Do vậy, bằng kỹ năng của mình luật sư cần phải nhận diện đúng về chứng cứ và nguồn chứng cứ được các bên cung cấp trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, tránh tình trạng tư duy sai lầm về tố tụng “án tại hồ sơ”. Luật sư không đọc hồ sơ để viết Bài bào chữa hay Bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, mà luật sư phải nhận thức đọc hồ sơ để biết mình phải làm gì cho thân chủ, để chủ động đưa ra các kiến nghị với cơ quan tiến hành tố tụng khi cần thiết, để phiên toà xét xử không chỉ mang tính thủ tục và hình thức mà phải diễn ra trên cơ sở tranh luận công khai tại phiên toà mới có thể ra đời một bản án hay quyết định công bằng, đúng pháp luật, bảo vệ tối đa quyền lợi của thân chủ chúng ta.

Thứ tư, một vấn đề tác động đến kỹ năng tranh tụng của luật sư là nhận thức của luật sư về đường hướng giải quyết yêu cầu của thân chủ. Bên cạnh việc tuân thủ đúng quy định pháp luật nội dung và hình thức để giải quyết vụ việc thì luật sư cần có nhận thức của chính mình về đường hướng giải quyết yêu cầu khách hàng đặt ra. Luật sư tham gia tranh tụng hôm nay phải nhận thức và đổi mới tư duy về quyền con người – bởi quyền con người luôn được tôn trọng và ngày một nâng cao cho dù thân chủ chúng ta là bị cáo, người bị hại hay các đương sự. Do vậy, đối với việc tham gia tranh tụng trong VAHS luật sư đừng quá lệ thuộc vào kết luận điều tra, cáo trạng hay quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án mà có tư duy làm sao để bảo vệ thân chủ tối đa – hãy quyết định đường hướng giải quyết vụ việc trong nhận thức của luật sư trên cơ sở luật định mặc dù trước đó đã có những chứng cứ buộc tội, bất lợi cho thân chủ. Còn trong tố tụng phi hình sự, xu hướng hiện đại cho thấy các vụ án đều hướng đến vấn đề hoà giải mà không cần tới việc xét xử của Toà án. Do vậy, đối với tranh tụng phi hình sự, bên cạnh việc quan tâm và bảo vệ lợi ích tối đa cho thân chủ luật sư phải nhận diện đúng yêu cầu của thân chủ, bản chất của vụ việc để có sự đánh giá khách quan và hướng thân chủ đến với hoà giải nếu điều đó cũng là mong muốn của thân chủ, hoặc thân chủ không mong muốn nhưng việc xét xử sau này sẽ bất lưọi cho họ nếu căn cứ theo quy định pháp luật…Chúng tôi cho rằng một xã hội dân sự có nền tư pháp dân chủ, văn minh là xã hội không phải có thật nhiều các bản án được tuyên thấu tình, đạt lý mà phải là xã hội ít tranh chấp, nếu có tranh chấp thì trước tiên phải được giải quyết bằng con đường hoà giải mà các bên vẫn đạt được quyền lợi cho mình chứ không chỉ tưu duy theo lối quyền lợi của mình chỉ có thể đạt được khi có bản án có hiệu lực của cơ quan Toà án. Chúng tôi muốn gợi ý để các luật sư tranh tụng phi hình sự quan tâm và đổi mới nhận thức về vấn đề này. Điều này cũng là xu hướng chung hiện nay được giới luật sư của các nước đang phát triển coi trọng và áp dụng.

II – NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG KHI THAM GIA PHIÊN TOÀ

Kỹ năng tranh tụng của luật sư trong giai đoạn tham gia phiên toà là kết quả của kỹ năng tranh tụng được chuẩn bị chu đáo từ giai đoạn trước. Có thể nói, không có quá nhiều vấn đề về kỹ năng tranh tụng của luật sư cần bàn đến trong giai đoạn này bởi vì chủ yếu luật sư phải giải quyết tốt công việc của mình theo một trình tự tố tụng tại Toà án được pháp luật quy định. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập của đất nước, xu hướng cải cách tư pháp được Đảng và nhà nước quan tâm và quyết tâm thực hiện, chúng tôi xin được trao đổi đôi điều về kỹ năng tranh tụng của luật sư như sau:

Một là, về vấn đề hoãn phiên toà. Chúng tôi cho rằng kỹ năng tranh tụng của luật sư giỏi không nằm ở việc có thể tìm biện pháp để đưa ra nhiều lý do vắng mặt của đương sự, của luật sư….để xin hoãn phiên toà, vì sớm muộn thì phiên toà vẫn được tiến hành theo quy định pháp luật và quyền lợi của thân chủ mình vẫn được thể hiện bằng việc tuyên án của Toà án. Vấn đề hoãn phiên toà sẽ gây tốn kém thời gian, vật chất, công sức cho rất nhiều chủ thể trong đó có luật sư chúng ta. Do vậy, chúng tôi muốn các luật sư trẻ ý thức hơn về vấn đề này để phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng làm sao cho phiên toà sớm được tiến hành, không phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần. Đây là trách nhiệm của luật sư chúng ta và trong bối cảnh đổi mới của đất nước hôm nay, mong rằng vấn đề này sẽ được giới luật sư chúng ta ghi nhận khi thực hiện kỹ năng tranh tụng của mình trong giai đoạn tham gia phiên toà.

Hai là, vấn đề tranh luận tại phiên toà. Như đã đề cập trên đây về vấn đề phải loại bỏ tư duy sai lầm của luật sư về vấn đề “án tại hồ sơ” khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nay xin trở lại với vấn đề đó bởi giữa việc nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong hồ sơ với kỹ năng tranh luận tại phiên toà có mối liên hệ rất mật thiết. Nói như vậy không có nghĩa coi việc nghiên cứu quy định pháp luật, nghiên cứu hồ sơ vụ án là phụ mà chúng tôi chỉ muốn đề cập tới vấn đề làm sao để các luật sư đừng quá lệ thuộc vào hồ sơ vụ án, không chuẩn bị tốt cho mình kỹ năng phần tranh luận công khai tại phiên toà. Xu hướng tranh tụng gần đây và đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO buộc chúng ta phải tuân thủ các cam kết quốc tế và pháp luật quốc tế, chắc chắn vấn đề tranh tụng công khai tại phiên toà sẽ là con đường xác định sự công bằng, lẽ phải để tuyên án. Do vậy, các luật sư trẻ cần phải tích cực tham gia, tham dự các phiên toà nhiều hơn để đúc kết kinh nghiệm cho mình; đồng thời ngoài việc lập sẵn cho mình kế hoạch xét hỏi, cần biết dự đoán các vấn đề cần tranh tụng công khai tại phiên toà trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan điểm bào chữa/bảo vệ của luật sư. Để làm được điều này, các luật sư trẻ cần phải giành thời gian để tự hùng biện quan điểm bào chữa hay bảo vệ của mình đối với yêu cầu của thân chủ. Kỹ năng nói, tốc độ nói, giọng nói, phong thái, tư thế đi lại tại phiên toà là những vấn đề bắt buộc luật sư phải quan tâm và xử lý tốt mới giúp luật sư tự tin. Xu hướng hiên nay, các luật sư phải đặc biệt quan tâm nhiều hơn kỹ năng của mình đối với phần tranh luận công khai tại phiên toà. Do vậy bài bào chữa hay bản luận cứ nên để dưới dạng “mở” có thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với diễn biến phiên toà chứ không nên theo cách chuẩn bị cổ điển “đóng” bằng cách viết sẵn để đọc và trình bày trước Hội đồng xét xử. Luật sư của các nước theo pháp luật Common Law mặc dù chịu sự điều chỉnh rất lớn của các “án lệ” trước đó, nhưng không vì thế mà họ không thể hiện tốt kỹ năng tranh luận để bảo vệ tối đa cho thân chủ mình, trái lại tại các phần tranh luận luật sư luôn là người chủ động, điều khiển phần tranh luận theo đúng mục tiêu cần đạt tới của mình. Điều này có ý nghĩa quyết định đối với việc thuyết phục Hội đồng xét xử tuyên một bản án có lợi cho thân chủ mình hơn là việc ngồi để hoàn chỉnh Bài bào chữa/Bài bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.

Ba là, về Bài bào chữa hay Bài luận cứ bảo vệ quyền lợi cho thân chủ. Chúng tôi cho rằng xã hội hôm nay là xã hội pháp quyền, do vậy pháp luật vẫn là mục tiêu tối thượng buộc các chủ thể tố tụng phải hướng tới và tuân thủ. Xu hướng trình bày luận cứ bào chữa hay bảo vệ quyền lợi cho thân chủ hiện nay nên được luật sư trình bày đơn giản, ngắn gọn, mạch lạc dựa trên các căn cứ pháp luật, chứng cứ của hồ sơ vụ án, các tình tiết mới cũng như kết quả tranh luận tại phiên toà. Do vậy luật sư không nên đề cập qua nhiều tới phạm trù đạo đức, tình cảm con người để lấy đó làm lý lẽ gỡ tội hay bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình. Luật sư vẫn quan tâm tới việc chia xẻ với khách hàng nhưng không thể coi đó là cơ sở lập luận gỡ tội hay bảo vệ khách hàng. Để làm được điều này đòi hỏi các luật sư phải ý thức được vấn đề quyết định để gỡ tội hay bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình là các cơ sở pháp lý chứ không tranh tụng theo hướng “tình cảm” con người.

Cuối cùng, về văn phong diễn đạt của luật sư trình bày tại phiên toà. Đây cũng là một vấn đề tuy nhỏ những khá ảnh hưởng tới uy tín tranh tụng của luật sư. Nhà văn Ciceron khi biên tập cuốn sách “những bài viết hay nhất” được Nhà xuất bản xã hội tại Paris, Pháp xuất bản năm 1925 có đưa ra các yêu cầu về văn phong là 05 tiêu chuẩn: trong sáng, ngắn gọn, phù hợp, rõ ràng và dễ chấp nhận. Thiết nghĩ văn phong pháp lý của luật sư chúng ta trước tiên phải đảm bảo các yêu cầu chung đó bên cạnh các yêu cầu đặc thù của nghề luật như không dùng câu từ trìu tượng, không dùng ngôn ngữ đời thường hay dung văn phong cảm thán, khoa trương. Chúng tôi có điều kiện tham gia tranh tụng tại khá nhiều phiên toà hình sự và không ít lần được nghe một số luật sư trẻ trình bày luận cứ gỡ tội với cách gọi hơi thái quá, chẳng hạn “Vị đại diện VKS kính mến” hay “Hội đồng xét xử công minh”, “Bà hội thẩm tài ba” hay có những luật sư đưa ra nhận định rằng “lập luận của vị đại diện VKS là vô cùng trong sáng, vô tư…”!(?) …Thú thực lời lẽ của luật sư đó khi trình bày cho người nghe cảm giác thấy khó nghe và phản cảm bởi khi ở phiên toà, chúng ta hành nghề luật và hãy biết nói với nhau bằng luật và chỉ có vậy mới khẳng định được kỹ năng tranh tụng của luật sư. Để nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư tại phiên toà, thiết nghĩ cũng cần lưu tâm nhiều hơn nữa đến vấn đề mà chúng tôi đề cập trên đây.

III – NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG SAU PHIÊN TOÀ

Phần cuối, chúng tôi muốn đề cập tới kỹ năng của luật sư sau phiên toà – đây cũng là một nội dung rất có ý nghĩa và làm nổi bật vai trò cũng như kỹ năng tranh tụng của luật sư.

Trước hết, nói về Biên bản phiên toà. Hiện nay trong công cuộc cải cách tư pháp, các cơ quan và những người tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng để giải quyết các vụ việc một cách cẩn trọng, công minh và phù hợp. Theo đó, các công việc và thủ tục hành chính của họ có hướng mở hơn, không cứng nhắc, lệ thuộc như trước. Biên bản phiên toà là một trong những văn bản cho phép những người tham gia tố tụng khẳng định quyền của mình. Luật sư Việt Nam chúng ta ít có thói quen xem và bổ sung, kiến nghị sửa đổi Biên bản phiên toà, trong khi đối với luật sư các nước khác đây là văn bản quan trọng nhất khẳng định các quyền còn lại của thân chủ họ sau khi tuyên án. Bởi vậy, theo xu hướng hội nhập hôm nay, chúng tôi muốn trao đổi vấn đề nay để các luật sư chúng ta, đặc biệt là các luật sư trẻ mới hành nghề cần phát huy tối đa quyền của những người tham gia tố tụng để xin phép Toà án xem Biên bản phiên toà sau khi tuyên án. Hãy làm cho nó trở thành thói quen để buộc những người tiến hành tố tụng phải tuân thủ và bảo đảm việc ghi Biên bản phiên toà một cách trung thực, đầy đủ tránh ảnh hưởng tới lợi ích của thân chủ chúng ta.

Sau cùng, xin được bàn về quan hệ của luật sư với thân chủ sau phiên toà, các luật sư trẻ cần chú ý kỹ năng tiếp xúc khách hàng không chỉ giới hạn trong khuôn khổ công việc luật sư thực hiện trên cơ sở Hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký mà luật sư còn phải lưu tâm tới yếu tố tình cảm con người, lòng yêu thương đồng loại. Luật sư có kỹ năng tranh tụng giỏi hôm nay không chỉ là luật sư giỏi luật, bào chữa/bảo vệ hay, thuyết phục được Toà án ra bản án công bằng đảm bảo quyền lợi cho thân chủ mình mà luật sư còn phải biết chia xẻ với khách hàng sau xét xử. Về mặt pháp lý, Hợp đồng dịch vụ pháp lý được thanh lý đồng nghĩa với việc luật sư hoàn thành trách nhiệm của mình với thân chủ nhưng về mặt tình cảm, hợp đồng ấy còn đọng lại nơi khách hàng những ấn tượng về luật sư. Do vậy, nếu luật sư có thể hướng dẫn cho họ biết cách làm đơn kháng cáo, hướng dẫn cách thăm nuôi cho gia đình họ, tôn trọng và bảo đảm việc giữ bí mật cho khách hàng, giới thiệu những đồng nghiệp là các luật sư giởi chuyên sâu trong các vấn đề mới phát sinh mà luật sư nhận thấy mình không đáp ứng tốt được yêu cầu mới của thân chủ…thì chắc chắn quan hệ giữa luật sư chúng ta và khách hàng sẽ bền lâu và họ luôn coi chúng ta là người đầu tiên họ tìm đến khi cần giúp đỡ về các vấn đề pháp lý. Do vậy, trước những thay đổi của xã hội chúng ta bên thềm hội nhập, việc nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư không chỉ ở góc độ chuyên môn, kỹ năng hành nghề mà còn phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của luật sư với thân chủ ngay cả khi đã hoàn thành công việc luật sư đằng sau phiên toà. Điều này chỉ có thể đạt được trên cơ sở tôn trọng truyền thống đạo đức con người Việt Nam, có tình thương đồng loại và ý thức cộng đồng của luật sư. Nói điều này có thể ai đó sẽ nghĩ là sáo rỗng, nhưng thực tế cuộc sống đặt ra cho chúng ta phải nhận thức để hành động như vậy, bởi lẽ không luật sư nào mong muốn khách hàng quay lưng lại với luật sư và không có luật sư nào đang tâm quay lưng lại với khách hàng, cho dù họ là ai.

SOURCE: ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 

piac

LS TRẦN MINH HÙNG

BÀN VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

BÀN VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

 
Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được tranh luận khá sôi nổi trong quá trình nghiên cứu và lập pháp nhằm cải cách thủ tục tố tụng tư pháp hình sự là vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng...
BÀN VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi
Viện khoa học kiểm sát, VKSNDTC
Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được tranh luận khá sôi nổi trong quá trình nghiên cứu và lập pháp nhằm cải cách thủ tục tố tụng tư pháp hình sự là vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đề ra chủ trương “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”. Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh việc “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Trong nội dung cải cách tư pháp, tranh tụng đang là một trong những vấn đề thường xuyên được đề cập đến và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành thì vấn đề tranh tụng đã thực sự trở thành vấn đề thời sự, không chỉ được tranh luận tại các hội nghị khoa học và các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động nghiên cứu sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Vậy thế nào là tranh tụng và vấn đề tranh tụng được đề cập trong Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị cần được hiểu như thế nào cho đúng. Có ý kiến cho rằng, cần xác định tranh tụng như một nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam, có ý kiến đề nghị chuyển mô hình tố tụng hình sự ở nước ta sang mô hình tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến lại cho rằng, yêu cầu tăng cường tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị không nên hiểu là yêu cầu thay đổi hệ thống tố tụng (từ hệ thống tố tụng thẩm vấn sang hệ thống hệ thống tố tụng tranh tụng), mà cần phải đựơc hiểu là yêu cầu cần phải tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Vấn đề tranh tụng không phải là vấn đề mới, nhưng cho đến nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. Người ta thường đề cập đến nguyên tắc tranh tụng, kiểu tố tụng tranh tụng, mô hình tranh tụng, hệ thống tranh tụng... lý giải vấn đề tranh tụng từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra một khái niệm cụ thể tranh tụng là gì. Trong một số tài liệu, thường người ta thường đề cập đến hệ thống tranh tụng (Adversarial System). Theo từ gốc tranh tụng trong tiếng Anh là “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Như vậy về bản chất tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong đó tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà giai đoạn đương đầu tại tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm, là chính. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách giản đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa hai bên tại phiên tòa, mà hiểu tranh tụng diễn ra trong một quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt để “cạnh tranh” nhau để “chống” lại nhau. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội (công tố) cố gắng để thuyết phục các thành viên Hội đồng xét xử tin rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội ngược lại, cố gắng và phải sử dụng mọi biện pháp, lý lẽ, căn cứ để biện bạch, bác bỏ những lời buộc tội do bên công tố đưa ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị cáo có thể bất chấp thủ đoạn để bảo vệ thân chủ bằng mọi giá. Phiên tòa tranh tụng thật sự là một “chiến trường” theo đúng nghĩa của nó khi mà kết cục phiên tòa, chỉ có một bên giành được phần thắng.
Có thể hiểu hệ thống tranh tụng là một hệ thống pháp luật tố tụng, trong đó tòa án không tham gia tích cực vào việc tìm kiếm sự thật của vụ án mà chỉ giữ vai trò trung gian, trọng tài cho “cuộc đấu” giữa bên buộc tội (Cơ quan điều tra và cơ quan công tố) và bên bị buộc tội (Luật sư bào chữa và thân chủ của họ) trên con đường tìm công lý. Tranh tụng được hiểu là các hoạt động được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu nhập và đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình và phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài.
Tố tụng tranh tụng thường được sử dụng rộng rãi ở các quốc gia theo truyền thống án lệ như Anh, Mỹ, Úc và một số quốc gia khác chịu ảnh hưởng của truyền thống pháp luật Anh - Mỹ.
Mặc dù được sử dụng ở nhiều quốc gia, nhưng không phải ở quốc gia nào tố tụng tranh tụng cũng giống nhau. Tuy có sự khác biệt trong tố tụng tranh tụng giữa các quốc gia, nhưng trình tự tố tụng tranh tụng theo ý kiến chung của đa số các nhà nghiên cứu, có thể được khái quát như sau:
Khi phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự, nếu là phạm vi nhỏ, tội ít nghiêm trọng (thông thường là những tội có mức hình phạt cao nhất dưới 5 năm tù) thì cảnh sát có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra tòa (chỉ xét xử với một Thẩm phán).
Nếu là tội nghiêm trọng mà bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ quan công tố để truy tố ra tòa án xét xử theo thủ tục rút gọn, không có Bồi thẩm đoàn tham dự. Trường hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị được xét xử bằng thủ tục có Bồi thẩm đoàn thì vụ án sẽ được cơ quan công tố truy tố ra tòa xét xử với một Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn. Trong quá trình xét xử, các bên buộc tội và bị buộc tội tự xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng đối chất nhau để bảo vệ quan điểm của mình.
Thẩm phán có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động tố tụng hướng dẫn cho Bồi thẩm đoàn những quy tắc tố tụng, chứng cứ và luật nội dung. Việc quyết định bị cáo có tội hay không hoàn toàn thuộc quyền hạn của Bồi thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên là có tội thì lúc đó chỉ có Thẩm phán tiếp tục vụ án với vai trò là người quyết định hình phạt và lượng hình. Nếu bị cáo được tuyên là vô tội, vụ án sẽ được chấm dứt ngay và cơ quan công tố không được quyền kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc không cho phép xét xử hai lần đối với một bị cáo về cùng một tội. Việc phúc thẩm chỉ đặt ra đối với cả hai bên khi bị cáo bị tuyên là có tội liên quan đến việc định tội hay lượng hình.
Qua tìm hiểu hệ thống tố tụng hay tranh tụng, có thể hiểu khái niệm về chế định tranh tụng trong tố tụng hình sự như sau: “Chế định tranh tụng trong tố tụng hỡnh sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật ghi nhận các nguyên tắc tranh tụng, trình tự thủ tục thực hiện tranh tụng tại phiên tòa, xác định trách nhiệm của các chủ thể tranh tụng và các chế tài xử lý vi phạm thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự, chi phối và định hướng mọi hoạt động và hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo cho quá trình xét xử công bằng, minh bạch và công khai, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được pháp luật công nhận và bảo vệ đồng thời xác định trách nhiệm của các bên tham gia tố tụng phải triệt để tuân thủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình tham gia tố tụng”.
Tranh tụng - xét dưới góc độ mụ hỡnh tố tụng hình sự
Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng được áp dụng phổ biến ở những quốc gia có truyền thống thông luật. Mô hình tố tụng này ra đời đầu tiên ở Anh, sau đó được phổ biến ở các nước vốn là thuộc địa của Anh. Mô hình này thừa nhận hoạt động tố tụng hình sự là quá  trình giải quyết tranh chấp pháp lý giữa một bên là đại diện nhà nước và một bên là công dân bị cáo buộc là đó thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trước một Tòa án - đóng vai trò là trọng tài vô tư, khách quan; Đoàn bồi thẩm - đại diện cho dân chúng cũng tham gia vào việc xét xử. Trong “cuộc đấu” pháp lý này, hai bên tranh chấp đều có những khả năng pháp lý như nhau để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Tranh tụng giữa hai bên bắt đầu ngay từ giai đoạn trước xét xử. Tòa án đánh giá chứng cứ theo nguyên tắc tự do, theo niềm tin nội tâm của mình.
Mô hình tố tụng tranh tụng có những đặc trưng chủ yếu như sau:
Thứ nhất, việc điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu
Tố tụng tranh tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét xử và tiến hành tố tụng chính, hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tập chung nhất của hệ thống tố tụng. Các hoạt động khác như hoạt động điều tra của cảnh sát, hoạt động truy tố của Công tố viên chỉ là những hoạt động mang tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng với ý nghĩa đầy đủ nhất theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Chỉ có Tòa án mới là chủ thể tiến hành tố tụng với ý nghĩa đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Vì vậy, hoạt động điều tra của luật sư và của cảnh sát có thể được tiến hành theo nhiều các khác nhau, với những phương pháp thu nhập chứng cứ khác nhau, nhưng đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thông qua sự xem xét đánh giá của Hội đồng xét xử thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục vụ cho vụ án, khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của Toà án. Chính vì việc điều tra tại phiên tòa là chủ yếu, thông qua việc xem xét đánh giá chứng cứ do các bên đưa ra nên phiên tòa theo thủ tục tố tụng tranh tụng thường rất dài và triệu tập nhiều nhân chứng
Thứ hai, trong tố tụng tranh tụng hình thành hai bên với những lợi ích đối kháng rõ rệt, đó là bên buộc tội và bên bị buộc tội. Trong tố tụng tranh tụng, Cơ quan công tố và Luật sư hoàn toàn bình đẳng nhau họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. Cơ quan công tố dưới danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của nhà nước đưa ra các quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn bên bị buộc tội là bị cáo và những Luật sư của họ cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được luật pháp cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn và trả lời chất vấn nhau công khai tại phiên tòa để làm rõ những vấn đề. Khác với tố tụng xét hỏi, tố tụng tranh tụng đặc biệt coi trọng nguyên tắc bằng miệng, công khai, tất cả các tình tiết, các chứng cứ mà Tòa án áp dụng để ra bản án đều phải được các bên tranh tụng tại phiên tòa. Với khoa học phát triển như hiện nay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải đựơc ghi âm hoặc ghi hình, việc xét xử công khai trực tiếp có thể tiến hành qua điện thoại, hội nghị và các cầu truyền hình trực tiếp. Tòa án tiến hành xét xử một vụ án ở một nơi có thể nghe lời khai trực tiếp của một người làm chứng nơi khác.
Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò là “Trọng tài” vô tư, khách quan
Do thủ tục tranh tụng không phân chia thành giai đoạn điều tra nên các chứng cứ đều do các bên trực tiếp đưa ra trong quá trình tranh tụng giữa Công tố viên và bị cáo, Luật sư. Thẩm phán ở các nước theo thủ tục này không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Đây cũng là điểm khác so với tố tụng xét hỏi, theo đó trước khi mở phiên tòa các chứng cứ đã được điều tra, thu thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ này. Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi không phải là một bên trung lập mà là người có vai trò chính trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán có thể trực tiếp chất vấn nếu như lời khai của bị cáo còn có nhiều mâu thuẫn hay bị cáo chối tội.
Trong tố tụng xét hỏi, mọi hành vi của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều chịu sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia hoặc những người tham gia tố tụng khác đều phải thông qua chủ tọa phiên tòa. Trong khi đó tại phiên tòa theo tố tụng tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho những người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời bên kia, phản đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra.
Hệ tranh tụng chú trọng vào hoạt động đối tụng giữa các bên trong giai đoạn xét xử với các quy tắc nghiêm ngặt về chứng cứ để đảm bảo rằng bị cáo được xét xử một cách công bằng. Nếu như ở hệ tố tụng tranh tụng, vai trò của Tòa án là thụ động, quá trình thẩm vấn của Thẩm phán ngay tại phiên tòa cũng chỉ mang tính chất gián tiếp thì tố tụng xét hỏi luôn đề cao vai trò chủ động của Thẩm phán trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Trong hệ tố tụng tranh tụng không có sự tố tụng xét hỏi nên chứng cứ trong tố tụng tranh tụng phải tuân theo quy tắc chứng cứ, ngay cả Thẩm phán cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất.
Viện công tố ở những nước theo thủ tục tố tụng tranh tụng có quyền hạn không lớn bằng những nước theo thủ tục tố tụng xét hỏi. Nên quá trình giải quyết vụ án nghĩa vụ của các bên đặt ra ngang nhau. Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng là một cuộc đấu giữa hai bên buộc tội và bên gỡ tội. Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn chỉ là trọng tài, nhưng phiên tòa trong tố tụng xét hỏi nhiều khi rơi vào tình trạng diễn lại những gì đã thực hiện trước đó, trên cơ sở đó hội đồng xét xử khẳng định lại các tình tiết, các chứng cứ để ra bản án. Các nước theo thủ tục tranh tụng gọi phiên tòa của tố tụng xét hỏi là các phiên họp. Vai trò của Luật sư và những người tham gia tố tụng khác đều bị chi phối thông qua vai trò Thẩm phán. Thẩm phán trực tiếp xét hỏi và phát triển sự kiện theo cách của mình còn các bên chủ yếu chỉ tranh luận để giải thích những gì liên quan đến chứng cứ vụ án.
Thứ tư, tố tụng tranh tụng có ba hệ quy tắc chi phối toàn bộ các hoạt động tố tụng, đó là: quy tắc tố tụng, quy tắc chứng cứ và quy tắc về ứng xử của Luật sư. Trong ba hệ quy tắc này, quy tắc về chứng cứ có ảnh hưởng lớn nhất vì nó kiểm soát loại chứng cứ nào có thể được đưa ra trước những người có thẩm quyền quyết định, hay nói cách khác, nó quyết định chứng cứ có được chấp thuận hay không. Ngay cả Thẩm phán cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất mà phải tuân theo các quy tắc chứng cứ đã được quy định. Quy tắc chứng cứ được đặt ra nhằm đảm bảo sự công bằng trong tranh tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn chứng cứ không đáng tin cậy, sai lệnh hoặc có thể dẫn đến định kiến cho những người có thẩm quyền phán quyết. Nếu coi tố tụng tranh tụng là một cuộc đấu tranh giữa hai bên có tranh chấp, thì nó đòi hỏi các bên tham gia tố tụng, nhất là cơ quan cảnh sát và công tố phải triệt để tuân thủ các quy tắc đã được luật quy định và trao thẩm quyền cho tòa án là cơ quan phải đảm bảo yêu cầu đó trong quá trình xét xử.
Tố tụng tranh tụng được thể hiện trực tiếp bằng lời nói, nên nhiều tài liệu trong tố tụng xét hỏi được xem là những chứng cứ quan trọng của vụ án thì trong tố tụng tranh tụng lại không được công nhận là chứng cứ. Tuy nhiên, để làm rõ các tài liệu liên quan đến vụ án, chủ nhân của nó sẽ được mời tham gia tố tụng và trực tiếp trình bày trước tòa.
Thứ năm, ở tố tụng tranh tụng thường có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn
Do vai trò của Thẩm phán trong tố tụng tranh tụng là người “trọng tài” nên thông thường phải có Bồi thẩm đoàn tham gia tố tụng. Bồi đoàn thẩm không tham gia vào quá trình tranh tụng nhưng họ có quyền biểu quyết bị cáo có tội hay không có tội, trên cơ sở đó, Thẩm phán sẽ quyết định về vụ án (đây là điểm khác biệt so với tố tụng thẩm vấn, trong tố tụng thẩm vấn Hội thẩm vấn nhân dân tham gia phiên tòa và quyết định cả về việc bị cáo có tội hay không có tội, quyết định cả về lượng hình đối với bị cáo, ở thủ tục tố tụng thẩm vấn Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có địa vị pháp lý ngang với hội thẩm nhân dân).
Thứ sáu, trong tố tụng tranh tụng, tồn tại yếu tố thú tội và thỏa thuận thú tội
Trong nhiều vụ án, cơ quan cảnh sát và công tố không thể tìm ra đủ chứng cứ để có thể “thắng” tại phiên tòa khi họ muốn truy tố một bị cáo, nên pháp luật có những quy định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ quan công tố thoả thuận để bị cáo nhận tội khai báo hay cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được giảm hình phạt sau này khi tòa án tuyên lượng hình (ví dụ: nếu bị cáo nhận tội trong giai đoạn đầu, mức giảm là một phần ba mức hình phạt thông thường). Việc thỏa thuận thú tội được diễn ra giữa Cơ quan cảnh sát, Viện công tố và bị cáo cùng Luật sư của họ. Thông thường Cảnh sát và Cơ quan công tố thông báo cho bị cáo biết đã có những bằng chứng gì về hành vi phạm tội của họ, trên cơ sở đó bị cáo sẽ tham gia ý kiến Luật sư và cân nhắc có nhận tội hay tiếp tục không khai báo hoặc chỉ khai báo trong phạm vi nhất định để sau này tòa sẽ báo lại việc buộc tội.
Tòa án không tham gia vào thủ tục này vì tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ án và bị cáo do cơ quan cảnh sát hay cơ quan công tố đưa ra truy tố. Cơ chế này tác động đến trình tự tố tụng vì khi bị cáo nhận tội dù ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào toàn bộ thủ tục đối với bị cáo sẽ được thay đổi theo hướng không còn “tranh tụng” nữa và lúc đó chỉ còn trách nhiệm của Thẩm phán phải thẩm tra lại hồ sơ vụ án và đưa ra hình phạt thích hợp. Tòa án không có trách nhiệm đối với việc cơ quan công tố bỏ lọt người hay bỏ lọt tội, không truy tố một tội phạm mà chỉ xét xử những tội phạm do cơ quan công tốt truy tố ra Toà. Tất nhiên, với vai trò không những là cơ quan áp dụng pháp luật và thực thi pháp luật mà còn là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân chống lại những lạm dụng quyền lực bất công, đảm bảo niềm tin công chúng vào công bằng và bình đẳng tòa án sẽ có trách nhiệm đối với việc đưa ra các bản án một cách đúng đắn chứ không chỉ đơn thuần dựa vào tài liệu trong hồ sơ hay các vụ án không xét xử bằng bồi thẩm đoàn. Nhưng rõ ràng là ở những trường hợp đó, trách nhiệm của Tòa án trong thủ tục tố tụng tranh tụng không nặng nề bằng Tòa án các nước theo thủ tục tố tụng xét hỏi với tư cách là khâu phán quyết thẩm tra cuối cùng của giai đoạn điều tra tố tụng, Tòa án ở những nước này có quyền khởi tố ngay tại phiên tòa, có quyền xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (ví dụ, ở Việt Nam).
Thứ bảy,  tố tụng tranh tụng đòi hỏi áp dụng phương pháp điều chỉnh pháp luật là phương pháp trọng tài dựa trên tự do và độc lập ý chí của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng. Phương pháp điều chỉnh này dựa trên yếu tố tự định đoạt và mệnh lệnh: thừa nhận quyền tự định đoạt của các bên và quyết định có tính bắt buộc thi hành của Tòa án. Bản thân các bên không thể tự mình tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến bên tranh tụng kia. Tòa án chỉ giải quyết vụ án trên cơ sở yêu cầu của các bên chứ không tự ý giải quyết những gỡ ngoài yờu cầu của cỏc bờn. Tũa ỏn không thể thực hiện bất kỳ hành vi nào thuộc chức năng buộc tội hay chức năng bào chữa. Tòa án tiến hành hoạt động của mihnh trên cơ sở có sự buộc tội của bên buộc tội đưa ra và chỉ giới hạn hoạt động trong phạm vi buộc tội. Điều này dẫn đến hệ quả: sự tranh tụng của các bên xung quanh sự buộc tội chính là động lực làm cho hoạt động tố tụng hình sự tiến triển, vận động lên phía trước. Không có buộc tội - không có tố tụng. Đây là một trong những quy tắc quan trọng của tranh tụng trên cơ sở thừa nhận vai trò độc lập của Tòa án.
Tranh tụng - xét dưới góc độ là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Theo quan niệm chung, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động nhất định “ là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự”; hoặc đó là “những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận.
Nguyên tắc tranh tụng thể hiện tính dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, bình đẳng trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự.
Tranh tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tố tụng sử dụng các phương pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nguyên tắc tranh tụng để cao vai trò của Luật sư, của cá nhân và đề cao các quyền cơ bản của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan và công minh, ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát của Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán luôn phải chịu trách sức ép từ bên đối tụng. Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự chứng minh được lý lẽ phải thuộc về mình, nếu không họ sẽ là người thua cuộc.
Như đã nêu ở trên, vai trò của tranh tụng được thể hiện thông qua ba quy tắc cơ bản định hình cho mọi thủ tục thực hiện tranh tụng. Đó là quy tắc về thủ tục, quy tắc về chứng cứ và quy tắc điều chỉnh về đạo đức ứng xử của Luật sư.
Quy tắc về thủ tục bao gồm một loạt các quy định giúp các bên chuẩn bị chứng cứ trước khi bước vào xét xử chính thức là một thủ tục tư pháp hành chính để tòa án xem xét các chứng cứ đã đủ cho việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm chính thức hay chưa. Quy tắc này cũng nhằm mục đích tránh những thủ tục điều tra có thể diễn ra không cần thiết tại phiên tòa.
Quy tắc về chứng cứ nhằm ngăn chặn việc sử dụng những chứng cứ không đáng tin cậy có thể làm cho tòa án đưa ra phán quyết trên cơ sở những thông tin sai lệnh. Đồng thời quy tắc về chứng cứ cũng nghiêm cấm sử dụng chứng cứ có thể gây ra những định kiến không công bằng cho một trong các bên tham gia tố tụng.
Với những quy định trong quy tắc về chứng cứ, nguyên tắc tranh tụng đảm bảo sự trung lập và thụ động của tòa án trong quá trình xét xử. Hơn nữa, quy tắc về chứng cứ cũng tạo điều kiện để Luật sư của các bên và Công tố viên, buộc họ phải biết được những chứng cứ nào có thể được chấp nhận tại phiên tòa trong khi xét xử. Nó cũng là cơ sở để xác định thẩm quyền của Thẩm phán chủ tọa phải điều hành phiên tòa theo các diễn biến của nó theo đúng thủ tục. Khác với hệ thống tố tụng thẩm vấn, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không có quyền chọn chứng cứ mà họ cho là thích hợp nhất mà phải tuân thủ các quy tắc về chứng cứ đã được xác định trước.
Do tính chất cạnh tranh, đối đầu trong tranh tụng tố tụng đã dẫn tới tình trạng buộc các bên phải đặt mục tiêu phải thắng trong cuộc đối đầu tại phiên tòa kể cả bằng bất cứ giá nào, nên nguyên tắc tranh tụng còn đặt ra một loạt các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp để kiểm soát đội ngũ Luật sư của các bên. Quy tắc về đạo đức hành nghề Luật sư còn đòi hỏi Luật sư phải trung thành với quyền lợi của thân chủ như chính quyền lợi của mình. Những thủ đoạn hay hành vi che dấu, làm sai lệch thông tin có thể làm cho tòa án định kiến đều bị pháp luật ngăn cấm và loại trừ.
Với vai trò tranh tụng thông qua ba quy tắc trên có thể thấy rằng, trong giai đoạn xét xử, nguyên tắc tranh tụng đảm bảo việc không trao cho ai quyền độc tôn trong xét xử, không một bên tham gia nào có thể chiếm ưu thế hơn bên kia, kể cả Thẩm phán chủ tọa. Quyền lực được phân chia giữa Thẩm phán, Công tố viên và Luật sư bào chữa, trong đó Công tố viên là người đại diện cho nhà nước buộc tội người bị tình nghi trước tòa. Luật sư bào chữa là người biện hộ cho người bị tình nghi phạm tội trước lời buộc tội của công tố viên. Luật sư có quyền phản bác lại chứng cứ buộc tội do công tố viên đưa ra. Đây chính là yếu tố rất quan trọng bảo đảm cho người bị tình nghi có đủ điều kiện pháp lý bảo vệ mình trong quá trình xét xử. Ngược lại, các chứng do bên gỡ tội đưa ra cũng có thể bị bên công tố phản bác lại trên cơ sở lập luận của mình, đó chính là thủ tục kiểm tra chéo chứng cứ đã nêu trên.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng vấn đề để kiểm tra chéo chứng cứ và cân bằng vị trí (giữa bên Công tố viên và Luật sư bào chữa không ai có lợi thế hơn ai về thẩm quyền trong quá trình xét xử) là một đặc điểm cơ bản, làm nổi bật vai trò của tranh tụng so với hệ thống tố tụng thẩm vấn, nơi mà hầu hết quyền lực đều tập trung vào thẩm phám trong giai đoạn xét xửVai trò của tranh tụng coi trọng việc xét xử một con người bị tình nghi phạm tội bị phán xét như thế nào tại phiên tòa hơn là việc xác định họ đã làm gì trên thực tế, xét xử tội trạng của họ thiên về phía cạnh pháp lý hơn trong khi đó, hệ thống tố tụng thẩm vấn coi phiên tòa sơ thẩm là giai đoạn điều tra công khai tại phiên tòa, và ở đó Thẩm phán không những là người điều khiển phiên tòa mà còn là người thẩm vấn chính, có nhiệm vụ thẩm tra lại tất cả các chứng cứ do các bên thu thập được trong giai đoạn điều tra trước đó.

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006