Tư vấn mượn tiền không trả là vi phạm dân sự hay hình sự?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Doanh Nghiệp

1. Vay nợ cũng có thể bị xử lý hình sự

Luật sư Hùng cho biết, trong một số trường hợp vay nợ cũng có thể bị xử lý hình sự. Theo khái niệm về tội phạm học, về mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì khi người phạm tội có được tài sản một cách hợp pháp thông qua hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản hoặc hợp đồng khác. Sau khi có được tài sản, người phạm tội không thực hiện như cam kết trong hợp đồng, sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Hậu quả là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản hoặc đã bỏ trốn hoặc không còn khả năng trả lại tài sản. Về mặt chủ quan của tội phạm thì đó phải là lỗi cố ý, có mục đích chiếm đoạt tài sản rõ ràng.

Chính vì vậy, Điều 175, Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau: người nào thực hiện một trong những hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.

Điều 175, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng quy định rõ, người nào vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản có trị giá từ 4 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 4 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt, tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại... thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

Về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, luật sư Hùng phân tích, xét về mặt khách quan thì người phạm tội phải có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật), làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như: bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động, hoặc bằng nhiều hình thức khác như: giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.

“Chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối. Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ đoạn gian dối làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị lừa dối dẫn tới giao tài sản cho kẻ phạm tội” - luật sư Hùng cho biết.              

Khoản 1, Điều 174, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại...

 

2. Các dạng cấu thành tội phạm trong bộ luật hình sự

Căn cứ vào cấu trúc của cấu thành tội phạm có thể chia cấu thành tội phạm thành: cấu thành tội phạm hình thức; cấu thành tội phạm vật chất; cấu thành tội phạm hỗn hợp. Trong đó:

1. Cấu thành tội phạm hình thức

Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có duy nhất một yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây thiệt hại cho xã hội hoặc hành vi tạo ra khả năng gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành động phạm tội là làm một việc mà pháp luật hình sự cấm không được làm. Ví dụ: hành động giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự); cướp tài sản (Điều 133 Bộ luật hình sự)…..

Còn hành vi phạm tội được thực hiện dưới dạng không hành động là trường hợp không làm một việc mà pháp luật bắt buộc phải làm, như các hành vi: không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự); không tố giác tội phạm (Điều 314 Bộ luật hình sự) (2). Các tội pham có cấu thành hình thức là những tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 78 – 84, 86-91, 133, 134… Bộ luật hình sự.

Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức được coi là hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong điều luật phần các tội phạm Bộ luật hình sự.

2. Cấu thành tội phạm vật chất

Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, trong đó:

- Hành vi phạm tội là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; được quy định ở các điều luật cụ thể thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.

- Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất. Căn cứ vào mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, thì có thể chia hậu quả do hành vi phạm tội gây ra thành bốn mức sau: hậu quả ít nghiêm trọng; hậu quả nghiêm trọng; hậu quả rất nghiêm trọng; và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, trong đó: Hậu quả ít nghiêm trọng là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra ở mức không lớn cho xã hội. Hậu quả nghiêm trọng là thiệt hại lớn cho xã hội về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và thiệt hại phi vật chất khác.

Hậu quả rất nghiêm trọng là thiệt hại rất lớn cho xã hội về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và thiệt hại phi vật chất khác. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là thiệt hại đặc biệt lớn cho xã hội về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và thiệt hại phi vật chất khác. Với tư cách là một yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm vật chất, thì chỉ những hành vi gây ra một trong các loại thiệt hại sau đây mới bị coi là tội phạm: hậu quả nghiêm trọng; hậu quả rất nghiêm trọng; và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả nghiêm trọng; hậu quả rất nghiêm trọng; và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Còn hành vi không gây ra hậu quả ít nghiêm trọng chỉ bị coi là phạm tội khi đi kèm các dấu hiệu khác (chúng tôi sẽ trình bày ở cuối bài viết này). Nghiên cứu các tội phạm có cấu thành vật chất, thấy “hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”được thể hiện bởi nhiều dạng khác nhau.

Có những tội dùng trực tiếp thuật ngữ gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” như tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng; tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ…Và cũng có tội gây ra nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng được thể hiện dưới dạng các mức độ thiệt hại cụ thể như: tính mạng, % sức khỏe bị thiệt hại, giá trị tài sản bị hành vi phạm tội xâm phạm. Đó là các tội: giết người, cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản…

- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm có cấu thành vật chất. Theo quy định của pháp luật, thì chỉ được coi là giữa hành vi khách quan và hậu quả có quan hệ nhân quả khi:

Hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội về mặt thời gian. Đây là căn cứ đầu tiên cần thiết cho việc kiểm tra sự tồn tại của quan hệ nhân quả và trên thực tế khi kiểm tra căn cứ này thì trong vụ án cụ thể, nếu không thoả mãn căn cứ thì không có khả năng tồn tại quan hệ nhân quả giữa giữa hành vi và hậu quả.

Hành vi trái pháp luật phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra phải là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của chính hành vi trái pháp luật. Hành vi trực tiếp gây ra hậu quả và hậu quả chính là hệ quả trực tiếp của hành vi. Cũng cần lưu ý rằng, trong quan hệ nhân quả, hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân, tuy giữ vai trò quyết định đối với sự phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng hậu quả đó xảy ra hay không và xảy ra như thế nào còn phụ thuộc vào những “điều kiện” nhất định như khắc phục, cứu chữa kịp thời…

Tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất được coi là hoàn thành từ thời điểm có thiệt hại xảy ra.

3. Cấu thành tội phạm hỗn hợp

Cấu thành tội phạm hỗn hợp là loại cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức, vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất.

- Cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất. Cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất là loại cấu thành tội phạm đặc trưng mới được quy định trong Bộ luật hình sự từ sau lần sửa đổi bổi sung năm 1997. Trong Bộ luật hình sự năm 1999 loại cấu thành tội phạm này được quy định tại một số tội xâm phạm sở hữu, tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tội phạm về chức vụ….Theo đó các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm bao gồm hành vi vi phạm, thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

Hành vi khách quan là hành vi vi phạm bởi vì nếu chỉ xét hành vi thì hành vi đó chưa đến mức bị coi là phạm tội do đối tượng tác động của tội phạm chưa đến mức khởi điểm để truy cứu trách nhiệm hình sự như: công nhiên chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới năm trăm ngàn đồng; sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị dưới ba mươi triệu đồng; nhận hối lộ dưới năm trăm ngàn đồng… nhưng người thực hiện hành vi vi phạm vẫn bị coi là phạm tội vì gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Do vậy, với loại cấu thành tội phạm này, thì thời điểm hoàn thành của tội phạm được tính từ thời điểm gây ra thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc thiệt hại phi vật chất cho xã hội chứ không phải là thời điểm thực hiện hành vi vi phạm. Loại cấu thành tội phạm này được mô tả ở một số điều luật cụ thể phần các tội phạm Bộ luật hình sự như sau:

- “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng …, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm (khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự)”.

- “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc…, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ* sáu tháng đến ba năm (khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự)”

- “Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc dưới ba mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc …, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm (khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự)”.

- “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào* có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Gây hậu quả nghiêm trọng;

b)…..

c)…… (khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự)” v.v…

- Cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức. Cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm chỉ bao gồm một dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan của cấu thành tội phạm là hành vi vi phạm. Hành vi khách quan là hành vi vi phạm bởi vì nếu chỉ xét hành vi thì hành vi đó chưa đến mức bị coi là phạm tội do đối tượng tác động của tội phạm chưa đến mức khởi điểm để truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng với đặc điểm nhất định về nhân thân, thì người thực hiện hành vi vi phạm đó bị coi là phạm tội.

Cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức giống cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất ở chỗ đối tượng tác động của tội phạm chưa đến mức khởi điểm để truy cứu trách nhiệm hình sự. Điểm khác nhau của cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành hình thức so với cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất thể hiện ở các điểm sau:

Thứ nhất, dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm không bao gồm hậu quả do hành vi phạm tội gây ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả.

Thứ hai, thời điểm hoàn thành của tội phạm không tính từ thời điểm gây ra hậu quả mà được coi là hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm.

Căn cứ vào tính chất nhân thân của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm, có thể chia các cấu thành tội phạm hỗn hợp thành: cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm; và cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố đã bị kết án mà còn vi phạm.

+ Cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm là cấu thành tội phạm mà một trong những yếu tố cấu thành tội phạm là “đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm”. Trong Bộ luật hình sự, loại cấu thành tội phạm này được thể hiện ở một số điều luật cụ thể phần các tội phạm Bộ luật hình sự như sau: “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng …. đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc …, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm (khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự)”; “Người nào đua trái phép xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ gây thiệt hại cho sức khoẻ, tài sản của người khác hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc … thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi* triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm (khoản 1 Điều 207 Bộ luật hình sự)”; “Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi với số lượng lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154, 155, 156, 157, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc…, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm (khoản 1 Điều 158 Bộ luật hình sự)” v.v…

Đặc điểm của loại cấu thành tội phạm này là hành vi vi phạm chỉ bị coi là phạm tội khi người thực hiện hành vi đó đã bị xử phạt hành chính, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm. Có hai loại “đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm” (3)

Một là, “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. Đây là trường hợp trước đó đã có lần vi phạm và bị xử phạt hành chính, nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính nay lại có hành vi vi phạm cùng loại. Trong trường hợp này hành vi đã bị xử phạt hành chính và hành vi mới bị phát hiện giống nhau. Như đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính nay lại có hành vi buôn lậu.

Hai là, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về “hành vi khác” mà còn vi phạm. Khác với trường hợp trên, trong trường hợp này hành vi đã bị xử phạt hành chính và hành vi vi phạm mới bị phát hiện là các hành vi khác loại.

Tội danh bị truy cứu trách nhiệm hình sự là tội danh theo hành vi mới. Như trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn lậu, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính nay lại có hành vi sản xuất hàng cấm, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự và xét xử về tội buôn bán hàng cấm theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự.

Thời điểm hoàn thành của các tội phạm có cấu thành tội phạm thuộc dạng này là thời điểm thực hiện hành vi vi phạm.

+ Cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm là cấu thành tội phạm mà một trong những yếu tố cấu thành tội phạm là yếu tố “đã bị bị kết án nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Trong Bộ luật hình sự, loại cấu thành tội phạm này được thể hiện ở một số điều luật cụ thể phần các tội phạm Bộ luật hình sự như sau:

“Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng… hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm:

a) Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

b) Mạo danh tác giả trên tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

c) Sửa đổi bất hợp pháp nội dung của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo* chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

d) Công bố, phổ biến bất hợp pháp tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình (khoản 1 Điều 131 Bộ luật hình sự)”;

“Người nào vì vụ lợi mà sử dụng trái phép tài sản của người khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên gây hậu quả nghiêm trọng hoặc… hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm (khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự)”;

“Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc… hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232,233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm (khoản 1 Điều 161 Bộ luật hình sự)”v.v…

Đặc điểm của loại cấu thành tội phạm này là hành vi vi phạm chỉ bị coi là phạm tội khi người thực hiện hành vi đó đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Cũng có hai loại dấu hiệu “đã bị kết án, nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” (4)

Một là, “đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Đây là trường hợp sau khi bị kết án, chưa được xóa tích nay lại có hành vi vi phạm. Trong trường hợp này, tội phạm đã bị kết án và hành vi mới vi phạm là những hành vi cùng loại. Như đã bị kết án về tội sản xuất, buôn bán hàng cấm, chưa được xoá án tích nay lại thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng cấm.

Hai là, đã bị kết án về tội phạm “khác” chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong trường hợp này tội danh đã bị xử không trùng với tội danh bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hình vi mới.Thời điểm hoàn thành của các tội phạm có cấu thành tội phạm thuộc dạng này là thời điểm thực hiện hành vi vi phạm.

- Ngoài các loại cấu thành tội phạm hỗn hợp nêu, chúng tôi thấy còn một số dạng cấu thành hỗn hợp quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, thì:

“Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”

Trong tất cả các trường hợp nêu trên chỉ có trường hợp quy định tại điểm b. “Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” là cấu thành có điểm giống với cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất ở chỗ: hậu quả bắt buộc xảy ra là cố tật nhẹ; và tội phạm được hoàn thành từ thời điểm gây ra cố tật nhẹ cho nạn nhân. Các trường hợp còn lại có điểm giống với cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố cấu thành tội phạm hình thức là tội phạm được hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi vi phạm. Điểm khác nhau cơ bản giữa các trường hợp này với cấu thành tội phạm hỗn hợp có yếu tố cấu thành tội phạm hình thức thể hiện ở các điểm sau đây:

Thứ nhất, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104, thì người thực hiện hành vi (vi phạm – chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự) bị coi là phạm tội do tính chất của hung khí là nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người.

Thứ hai, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104, thì người thực hiện hành vi vi phạm bị coi là phạm tội do số lần vi phạm hoặc số người bị vi phạm là “lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người”.

Thứ ba, theo quy định tại các điểm d và đ khoản 1 Điều 104, thì người thực hiện hành vi vi phạm bị coi là phạm tội do đối tượng người bị hại là “trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo” của người vi phạm.

Thứ tư, theo quy định tại các điểm e khoản 1 và ý 1 điểm i khoản 1 Điều 104, thì người thực hiện hành vi vi phạm bị coi là phạm tội do tính chất của hành vi vi phạm là “có tổ chức hoặc có tính chất côn đồ”.

Thứ năm, theo quy định tại ý 2 điểm i khoản 1 Điều 104, thì người thực hiện hành vi vi phạm bị coi là phạm tội do nhân thân của người vi phạm là “tái phạm nguy hiểm”.

Thứ sáu, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 104, thì người thực hiện hành vi vi phạm bị coi là phạm tội do thời gian thực hiện hành vi vi phạm là “Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục”.

Thứ bảy, theo quy định tại các điểm h và k khoản 1 Điều 104, thì người thực hiện hành vi vi phạm bị coi là phạm tội do mục đích, động cơ thực hiện hành vi gây thương tích là “Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”

Điểm chung nhất của các dạng cấu thành tội phạm hỗn hợp nêu trên là hành vi vi phạm chưa đến mức để truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng người thực hiện hành vi vi phạm đó bị coi là phạm tội khi có một trong những điều khác đi kèm. Theo chúng tôi, thì việc Bộ luật hình sự quy định những cấu thành tội phạm hỗn hợp nêu trên là mẫu thuẫn với quy định tại Điều 8 “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…”. Thiết nghĩ cần nghiên cứu khắc phục bất cập này khi có điều kiện sửa đổi Bộ luật hình sự.

3. Phân biệt 04 loại tội phạm trong Bộ luật hình sự 2015

Bộ luật Hình sự 2015 đã phân loại tội phạm theo 04 nhóm căn cứ vào vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; cụ thể như sau:

Loại tội phạm

Tính chất, mức độ nguy hiểm

Mức cao nhất của khung hình phạt

Tội phạm ít nghiêm trọng

Là tội phạm có tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội không lớn.

Phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.

Tội phạm nghiêm trọng

Là tội phạm có tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội lớn.

Phạt từ trên 03 năm đến 07 năm tù.

Tội phạm rất nghiêm trọng

Là tội phạm có tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội rất lớn.

Phạt từ trên 07 năm đến 15 năm tù.

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Là tội phạm có tính chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội đặc biệc lớn.

Phạt từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

4

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)

5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)

68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958

Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

http://www.luatsugiadinh.net. vn

http://www.luatsuthanhpho.com

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006