Luật sư tranh tụng chia tài sản ly hôn khi Vợ chỉ ở nhà nội trợ

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Ly Hôn

1. Giải quyết các tình huống về chia tài sản chung khi ly hôn

Tóm tắt câu hỏi:

Xin hỏi luật sư, chị gái tôi bị chồng làm đơn ly hôn ra Tòa. Tòa án thành phố đã có thông báo thụ lý hồ sơ giải quyết ly hôn. Trong phiên hòa giải, chồng chị tôi muốn thỏa thuận chia tài sản với chị tôi nhưng về nhà anh ta không hợp tác, chỉ chia bằng miệng mà không tiến hành làm các thủ tục sang tên.

Tài sản chung của vợ chồng chị tôi gồm 4000 m2 đất của bố mẹ chồng cho. 5000 m2 ruộng đã có bìa đỏ đứng tên cả hai vợ chồng. Bìa đỏ được cấp năm 2011. Ngôi nhà 100m2 được xây trên mảnh đất 4000m2 đã có sổ đỏ nhưng vì ở nông thôn không cần giấy phép xây dựng. Xin hỏi luật sư: Bây giờ vợ chồng chị tôi ly hôn thì hai tài sản đó sẽ được chia như thế nào? Ghi chú là chị tôi và anh rể có hai con gái, đứa lớn 18 tuổi và đứa bé 15 tuổi.

Chị tôi đề nghị nhờ Tòa phân chia tài sản hộ nhưng chồng chị không đưa bìa đỏ cho và không nộp lên Tòa thì phải làm thế nào? Nếu Tòa phân chia thì án phí sẽ tính thế nào? Trường hợp chồng chị giấu bìa đỏ đi và làm lại chứng nhận bìa đỏ chỉ đứng tên anh ta thì có được không vì đất đó được tách nhượng cho từ bố mẹ anh ta? Xin cảm ơn luật sư!

Luật sư tư vấn:

Thứ nhất, trường hợp chồng giấu bìa đỏ đi và làm lại chứng nhận bìa đỏ chỉ đứng tên chồng thì có được không?

Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân (trừ trường hợp tài sản đã chia trong thời kì hôn nhân và hoa lợi, lợi tích tạo ra từ tài sản đó), tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Như vậy, quyền sử đụng đối với mảnh đất 4000m2 mà vợ chồng anh chị bạn được bố mẹ chồng tặng cho là trong thời kì hôn nhân, mặt khác người chồng không có giấy tờ, thỏa thuận về việc đó là tài sản tặng cho riêng hay đó là tài sản riêng, do vậy, đây cũng là tài sản chung của vợ chồng.

Đối với việc sửa đổi tên trong Giấy chứng nhận quyền sử đất từ hai người thành một người khi chưa có bản án ly hôn của Tòa án tức là tài sản này nếu được sửa đổi tên là do chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“Trong trường hợp tài sản chung được chia trong thời kỳ hôn nhân mà trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng thì bên được chia phần tài sản bằng hiện vật có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn bản thỏa thuận của vợ chồng hoặc quyết định của Tòa án về chia tài sản chung.”

Điều này có nghĩa là, vợ hoặc chồng chỉ có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đăng kí lại quyền sử dụng mảnh đất đứng tên từ hai người thành một người nếu có văn bản thỏa thuận của vợ chồng hoặc Quyết định chia tài sản chung của Tòa án. Do đó, trường hợp của bạn, người chồng không thể tiến hành xin cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên một mình anh ta được.

Thứ hai, tài sản đó được chia như thế nào?

Khoản 2 Điều 33 Luật HN&GĐ quy định rõ “Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng”, tức là tài sản này chỉ thuộc quyền sử dụng của hai vợ chồng mà không liên quan gì đến các con.

Theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ, về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi, tuy nhiên nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

Đối với tài sản chung là Quyền sử dụng đất, việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau (Điều 62):

– Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ.

Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;

– Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ;

– Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.

Thứ ba, trường hợp người chồng không đồng ý chia tài sản, không đưa ra Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì làm thế nào?

Tại phiên tòa giải quyết ly hôn, Tòa án sẽ chia tài sản dựa trên sự thỏa thuận của các bên, trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được, hoặc đã thỏa thuận nhưng muốn thay đổi thì Tòa án sẽ tiến hành chia tài sản theo luật định.

Nếu trường hợp người chồng không đồng ý chia tài sản, Tòa án sẽ yêu cầu người chồng nộp những giấy tờ, tài liệu cần thiết để tiến hành thủ tục ly hôn. Trong trường hợp không thu thập được tài liệu của đương sự thì Tòa án có trách nhiệm tiến hành thu thập từ các cơ quan hữu quan.

Trường hợp sau khi đã có bản án của Tòa án, bản án đã có hiệu lực pháp luật, trong một thời hạn nhất định mà người chồng vẫn không tiến hành các thủ tục tách thửa, sang tên quyền sử dụng đất thì người vợ nộp đơn yêu cầu thi hành án đến cơ quan thi hành án dân sự. Lúc này cơ quan thi hành án dân sự sẽ có văn bản gửi cho người chồng buộc phải thực hiện nghĩa vụ. Nếu trong thời hạn quy định, người chồng không thực hiện thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc người chồng thực hiện nghĩa vụ.

2. Vợ có được chia tài sản khi ly hôn nếu ở nhà nội trợ?

Vợ chồng anh T.T.H (32 tuổi; ở Quận 3-Hồ Chí Minh) kết hôn được 5 năm và có một con nhỏ 3 tuổi. Anh H đi làm, còn chị V (vợ anh H) ở nhà nội trợ.

Do cuộc sống hôn nhân trục trặc, anh H bày tỏ mong muốn được ly hôn. Gửi câu hỏi cho tòa soạn, người đàn ông này băn khoăn nếu phải ra tòa, tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân sẽ được chia như thế nào?

Giải đáp thắc mắc này, luật sư Trần Minh Hùng (Trưởng Văn Phòng Luật Sư Gia Đình) nhận định, dù chị V không có thu nhập, khối tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân vẫn được tính là tài sản chung của vợ chồng.

Khoản 1, Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Do đó, tài sản do mình anh H tạo ra được xác định vào khối tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp hai người có thỏa thuận khác theo các trường hợp tại Khoản 1, Điều 28 luật này.

Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng sẽ tính tới các yếu tố quy định tại Khoản 2, Điều 59 như hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung, hay lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định “công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của người đi làm. Ngoài ra, nếu công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

Như vậy, chị V là người thực hiện công việc nội trợ, trông nom con cái, chăm sóc gia đình. Chị không có thu nhập hằng tháng nhưng vẫn được tính là có thu nhập tương đương với thu nhập của anh H và vẫn được chia tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân.

CCHC4

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn!.

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006