Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

Tranh chấp đòi nhà cho thuê - bản án

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

Tranh chấp đòi nhà cho thuê - bản án

Nội dung vụ án: Các nguyên đơn - ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B, bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V cùng trình bày: Nguồn gốc hai căn nhà số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H là của cụ Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1902 chết năm 1989 và vợ là cụ Nguyễn Thị Q, sinh năm 1905 chết năm 1974. Hai cụ sinh được 03 người con là ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị X, ông Nguyễn Ngọc C. Ông A chết năm 1984 có vợ là bà Nguyễn Thị Kh và 05 người con là bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Thị Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B. Bà X chết năm 1973, chồng bà X là ông Nguyễn Văn Y chết năm 2003, có 04 người con là bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V.

 
Năm 1943, cụ M và cụ Q đã mua được diện tích nhà đất, trước đây là số nhà 230 và 232 phố ST (nay là 94 và 96 phố KM) - quận BĐ - thành phố H (giấy bằng khoán điền thổ số 194 cấp ngày 16/6/1944, thửa 880, khu VP) diện tích 150m2.
Khoảng năm 1958, bà Nguyễn Thị L cùng chồng là ông Nguyễn Thế Đ đến xin ở thuê gian nhà lợp ngói phía trong nhà số 230 phố ST (nay là số 94 KM), diện tích trên 20m2 với giá thuê lúc đó là 7đồng/tháng, đến năm 1984 giá thuê là 20 đồng/tháng. Thời gian này, việc cho thuê hai bên chỉ thoả thuận bằng miệng. Gian nhà phía ngoài mặt đường của số nhà này cụ M cho gia đình ông Nguyễn Văn D làm nghề sửa xe đạp thuê 02 buồng diện tích là 30m2 với tiền thuê nhà là 30 đồng/tháng.
Lúc cụ M còn sống, việc thu tiền nhà chỉ ghi biên lai bằng tay, thường thì vài tháng trả một lần. Sự việc vẫn tiếp diễn như vậy cho đến cuối năm 1989 thì cụ M mất. Từ đó đến nay, bà N không trả tiền thuê nhà nữa.
Đến tháng 3/1997, Nhà nước mở đường CG - HV, phần diện tích nhà bà N thuê ra mặt đường. Lợi dụng lúc Nhà nước giải phóng mặt bằng, gia đình bà N đã dỡ mái ngói nhà đang ở thuê và dựng các khung sắt lên để làm lại nhà và gác xép. Ngay thời gian này, gia đình các ông bà đã gặp và trao đổi để gia đình xây dựng lại nhà và làm hợp đồng thuê nhà mới với gia đình bà N, nhưng gia đình bà N không nghe. Các năm sau, gia đình bà N tự ý sửa chữa, lát sàn, làm cửa sắt vào ngày 14/11/2002 cũng không trao đổi bàn bạc với gia đình bên cho thuê.
Năm 2003, gia đình các ông bà đã hai lần mời bà N sang để trao đổi về nhà cửa và làm hợp đồng thuê nhà mới, nếu không sẽ đòi lại nhà. Bà N trả lời là muốn kiện đâu thì kiện.
Ngày 24/01/2005, gia đình các ông bà đã làm thông báo đòi nhà cho thuê do phía bên thuê không chịu trả tiền thuê nhà, thông báo được giao cho gia đình bà N. Sau đó, sự việc được tiến hành hoà giải tại Cụm dân cư số 10 ngày 20/7/2005 nhưng gia đình bà N không ai tới. Hoà giải tại UBND phường KM lần thứ I ngày 05/8/2005, gia đình các ông bà đề nghị hỗ trợ 100.000.000 đồng để bà N mua nhà khác nhưng gia đình nhà bà N không nhất trí và không ký. Hoà giải lần thứ II tại UBND phường KM ngày 03/11/2006, gia đình các ông bà vẫn đề nghị hỗ trợ 100.000.000 đồng, gia đình bà N xin mua lại với giá 50% giá thị trường nhưng gia đình các ông bà không đồng ý.
Các ông bà bên cho thuê nhà nhất trí với kết quả định giá nhà số 94 KM của Hội đồng định giá ngày 22/4/2008, không yêu cầu định giá lại và tự nguyện thanh toán toàn bộ giá trị xây dựng nhà trên cho bên gia đình bà N mặc dù việc sửa chữa nhà của gia đình bà N không được sự đồng ý của gia đình bên cho thuê và trong kiến trúc nhà số 94 KM hiện nay có cả kiến trúc nhà cũ của gia đình các ông bà.
Gia đình các ông bà hiện rất đông con cháu, người phải đi thuê chỗ ở, người phải đi thuê cửa hàng để làm ăn sinh sống nên gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi nhà đất của ông cha để lại gia đình bà N lại cố tình chiếm dụng không trả cho gia đình các ông bà.
Vì vậy, ngày 15/6/2007 các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết đòi lại nhà số 94 KM mà hai cụ M và Q đã cho bà N thuê năm 1958, buộc bà N trả lại nhà số 94 KM cho gia đình các nguyên đơn theo quy định của pháp luật. Bên nguyên đơn tự nguyện thanh toán số tiền 173.264.000 đồng giá trị xây dựng tại số 94 phố KM như kết quả định giá ngày 22/4/2008 và 6.400.000 đồng mà gia đình bà N lợp mái tôn sau thời gian định giá ngày 22/4/2008, tổng cộng là 179.664.000 đồng cho gia đình bà N khi gia đình bà N  trả lại nhà cho nguyên đơn. Phía nguyên đơn không yêu cầu gia đình bà N thanh toán tiền thuê nhà 94 phố KM từ năm 1989 cho đến nay.
Bị đơn ông Nguyễn Thế H - con trai bà N, đồng thời là người được bà Nguyễn Thị N uỷ quyền trình bày:
Bố ông H là ông Nguyễn Thế Đ chết năm 2001, mẹ ông là bà Nguyễn Thị N già yếu (bà N uỷ quyền cho ông H). Gia đình ông H ở số 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H từ năm 1958. Nhà lúc đầu là cái bếp, sau bố mẹ và vợ chồng ông sửa chữa nhiều lần, hiện là nhà xây gạch đỏ, lợp tôn, gác xép gỗ thường có diện tích bằng 12m2, diện tích nhà là 24m2 cho đến nay không có gì thay đổi về diện tích. Diện tích này trước đây ở trong ngõ, đến năm 1997, Nhà nước mở đường, diện tích này ra mặt đường.
Về giấy tờ nhà, gia đình ông H không có một loại giấy tờ nào mà chỉ có hộ khẩu của gia đình tại diện tích này. Hiện tại gia đình ông có hai hộ khẩu: hộ thứ nhất chủ hộ là bà Nguyễn Thị N (bà N là mẹ ông, hộ độc thân); hộ thứ hai chủ hộ là ông H với 8 nhân khẩu khác gồm vợ, con và các cháu ông.
Toàn bộ việc sửa chữa nhà là công sức của vợ chồng ông, ông hoàn toàn nhất trí với kết quả định giá của Hội đồng định giá ngày 22/4/2008, không yêu cầu định giá lại. Từ ngày 22/4/2008 cho đến nay, gia đình ông H có làm lợp thêm mái tôn hết 6.400.000 đồng nhưng không có yêu cầu gì về số tiền trên. Ngoài ra, gia đình ông H không có sửa chữa gì khác.
Gia đình ông C có thông báo đòi nhà cho thuê đối với gia đình ông và UBND phường KM có gọi ông H ra để hoà giải. Do phía gia đình ông H bị sức ép ông C và không hiểu pháp luật nên ông H có ký vào biên bản hoà giải tại phường với phương án là 50 : 50, mỗi bên được hưởng 1/2 giá trị diện tích nhà đất gia đình ông đang ở.
Để tiện cho việc ăn ở ổn định, ông H đồng ý thanh toán cho bên ông C khoản tiền khoảng 1 tỷ đồng, bằng 1/2 giá trị định giá nhà tại số 94 phố KM để gia đình ông hoàn tất giấy tờ nhà đất tại đây.
Ông H xác định, mặc dù gia đình ông không có giấy tờ gì tại số 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H, nhưng cũng không ở thuê hay ở nhờ nhà của ai cả. Gia đình ông không đồng ý yêu cầu đòi nhà cho thuê của phía nguyên đơn.
Vợ và hai con ông đã đến tuổi trưởng thành, đã nhận được giấy báo của Toà án do ông giao tận tay nhưng không đến Toà vì nguyện vọng của họ là nhất trí với ý kiến của ông và uỷ quyền cho ông.
Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện:
Biên bản hoà giải ngày 05/8/2005 và ngày 03/11/2006 của UBND phường KM tổ chức có nội dung các bên nguyên đơn và bị đơn trong vụ án đều xác định giữa họ có quan hệ thuê nhà.
- Bằng khoán điền thổ số 194 cấp ngày 16/6/1944 khu VP, thửa số 880, diện tích 150m2 mang tên cụ Nguyễn Ngọc M và vợ là cụ Nguyễn Thị Q.
- Công văn số 5054/TNMTND-TCHC ngày 19/10/2007 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H trả lời ông C, xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 KM, quận BĐ, thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
- Giấy phép xây dựng, sơ đồ thửa đất, các biên lai nộp thuế thổ trạch và các giấy tờ khác liên quan đến diện tích nhà đất tại số 94 và 96 phố KM (tức số 230 và 232 phố ST cũ) đứng tên cụ M.
Toà án nhân dân thành phố H có công văn hỏi nguồn gốc nhà đất trên gửi Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H và gửi UBND thành phố H. Ngày 17/6/2008, UBND thành phố H có Công văn số 3813/UBND-NNĐC yêu cầu Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H và Sở Xây dựng thành phố H xem xét trả lời Toà án thành phố H.
- Công văn số 1004/TNMTND-TCHC ngày 19/3/2008 và Công văn số 690/TNMT-TTCNTTTNMT ngày 09/10/2008 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H trả lời Toà án thành phố H, xác định: nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM, quận BĐ, thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
- Công văn số 1922/XD-PC ngày 17/10/2008 của Sở Xây dựng thành phố H trả lời Toà án thành phố H, xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
Theo Quyết định số 506/QĐ-UB ngày 30/6/1997 của UBND thành phố H và phương án đền bù giải phóng mặt bằng mở đường HV - CG của Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng UBND quận BĐ ngày 17/8/1996 thì nhà số 230 và 232 phố ST diện tích bị giải toả là 102,94m2(gồm các hộ ông C, ông Y, bà Kh chủ nhà và các hộ thuê nhà ông H, bà V) tại 232 phố ST và hộ thuê ông D tại 230 phố ST; hộ bà N, ông H ở phía trong nhà 230 phố ST không nằm trong diện giải toả. Như vậy, diện tích còn lại của hai số nhà trên sau giải toả là: 150m2 - 102,94m2 = 47,06m2.
Phần diện tích còn lại của nhà 232 phố ST, gia đình ông C đang sử dụng đã làm sổ đỏ có diện tích 20,92m2, nên phần diện tích còn lại tại số 230 phố ST (do gia đình bà N, ông H đang ở) sau giải toả là 47,06m2 - 20,92m2 = 26,14m2. Theo kết quả định giá ngày 22/4/2008 của Toà án thành phố H xác định, diện tích gia đình bà N, ông H đang sử dụng có diện tích là 24,48m2. Toàn bộ nội dung liên quan đến quá trình giải phóng mặt bằng năm 1997 tại số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM đều do các đồng thừa kế của cụ M, cụ Q giải quyết với các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Bình luận:
* Về áp dụng pháp luật nội dung để giải quyết tranh chấp:
Vụ án đòi nhà cho thuê giữa các nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, ông Nguyễn Ngọc L và các nguyên đơn khác đối với bị đơn là bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Thế H, căn cứ vào các tình tiết của vụ án, qua lời khai thống nhất của các bên đương sự thì thời điểm xác lập quan hệ dân sự (quan hệ hợp đồng thuê nhà ở) giữa hai bên là vào năm 1958. Đây là giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu nhà tư nhân được xác lập trước ngày 01/7/1991, nên áp dụng luật nội dung để giải quyết tranh chấp là các quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội  và Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999.
* Về quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn:
Theo các nguyên đơn, nguồn gốc nhà, đất hiện do gia đình ông H đang quản lý, sử dụng là của cụ M, cụ Q. Cụ M, cụ Q chết các thừa kế của cụ yêu cầu đòi nhà các cụ đã cho gia đình ông H thuê. Mặc dù phía bị đơn ông H không thừa nhận gia đình ông là người thuê nhà của phía nguyên đơn, cũng như phía nguyên đơn không xuất trình được hợp đồng thuê nhà giữa cụ M, cụ Q và ông Đ, bà N nhưng căn cứ vào các biên bản hoà giải ngày 05/8/2005 và ngày 03/10/2006 của UBND phường KM tổ chức, các bên nguyên đơn và bị đơn trong vụ án đều xác định giữa họ có quan hệ thuê nhà nên có căn cứ xác định gia đình bà N, ông H là người thuê nhà của các nguyên đơn. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định tại điểm b, c khoản 6 Mục I Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điểm b, c khoản 6 Mục I Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao
quy định:
6. “Hợp đồng thuê nhà ở” là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê nhà ở giao nhà ở cho bên thuê để sử dụng (có thời hạn hoặc không có thời hạn) và nhận tiền thuê, còn bên thuê nhà ở được sử dụng nhà ở đó để ở và phải trả tiền thuê nhà ở theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Được coi là hợp đồng thuê nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có hợp đồng bằng văn bản (có thể có xác nhận hoặc không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền);
b) Người ở tại nhà ở đó chứng minh được là họ đang sử dụng nhà ở đó theo quan hệ thuê nhà ở;
c) Một trong những người thuộc một trong các điểm a, b, c, khoản 2 Mục I Thông tư này chứng minh được rằng họ cho thuê nhà ở đó mà không phải là họ bán, tặng cho, cho ở nhờ nhà ở đó.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Mục II Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 quy định: Trong trường hợp hạn thuê nhà ở không được xác định thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở sau ngày 01/7/2005 nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê ít nhất là ba tháng. Phía nguyên đơn trong vụ án đã có Thông báo đòi nhà cho bên bị đơn ngày 24/01/2005, sau đó hai bên đã hoà giải nhiều lần trong đó có 02 lần hoà giải tại UBND phường KM các ngày 05/8/2005 và ngày 03/10/2006. Như vậy, phía nguyên đơn đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu của pháp luật trong vụ kiện đòi nhà cho thuê đối với phía bị đơn. Từ các tình tiết trên của vụ án, chúng ta xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là tranh chấp hợp đồng thuê nhà ở.
 
Khoản 5 Điều 3 Mục II Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 quy định:
5. Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở không được xác định trong hợp đồng và các bên không có thỏa thuận khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng; nếu đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2005 mà phát sinh các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này, thì thực hiện theo quy định tại các điểm đó.
* Về giải quyết yêu cầu của nguyên đơn:
- Về nguồn gốc nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM (số mới) - quận BĐ - thành phố H.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ có đủ cơ sở xác định toàn bộ diện tích nhà đất tại số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM (số mới) - quận BĐ - thành phố H thuộc quyền sở hữu của cụ Nguyễn Ngọc M và vợ là cụ Nguyễn Thị Q, cụ thể:
- Bằng khoán điền thổ số 194 cấp ngày 16/6/1944 khu VP, thửa số 880, diện tích 150m2 mang tên cụ Nguyễn Ngọc M và vợ là cụ Nguyễn Thị Q.
- Công văn số 5054/TNMTND-TCHC ngày 19/10/2007 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H trả lời ông C, xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 KM, quận BĐ, thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
- Giấy phép xây dựng, sơ đồ thửa đất, các biên lai nộp thuế thổ trạch và các giấy tờ khác liên quan đến diện tích nhà đất tại số 94 và 96 phố KM (tức số 230 và 232 phố ST cũ) đứng tên cụ M.
- Công văn số 1004/TNMTND-TCHC ngày 19/3/2008 và Công văn số 690/TNMT-TTCNTTTNMT ngày 09/10/2008 của Sở Tài nguyên, môi trường và nhà đất thành phố H trả lời Toà án thành phố H, xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM, quận BĐ, thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
- Công văn số 1922/XD-PC ngày 17/10/2008 của Sở Xây dựng thành phố H đã xác định: Nhà đất tại địa chỉ số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới) thuộc diện nhà tư nhân tự quản, thửa 880, tờ 4, khu VP đứng tên ông Nguyễn Ngọc M.
Về nội dung phương án đền bù giải phóng mặt bằng mở đường HV - CG của Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng UBND quận BĐ ngày 17/8/1996 đối với nhà số 230 và 232 phố ST (cũ) tức 94 và 96 phố KM (mới) - quận BĐ - thành phố H.
Nhà số 94 và 96 phố KM (số mới) tức số 230 và 232 phố ST (số cũ) trước đây gồm có các hộ gia đình: Tại số nhà số 230 phố ST (94 phố KM) có hai hộ thuê, phía ngoài là hộ ông D, phía trong là gia đình bà N, ông Đ; tại số nhà số 232 phố ST (96 phố KM) có các hộ gồm chủ nhà là hộ ông C, hộ ông Y, hộ bà Kh (hộ bà Kh diện KT2) và các hộ ở thuê là hộ ông H, bà V.
Theo Quyết định số 506/QĐ-UB ngày 30/6/1997 của UBND thành phố H và phương án đền bù giải phóng mặt bằng mở đường HV  - CG của Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng UBND quận BĐ ngày 17/8/1996 thì nhà số 230 và 232 phố ST diện tích bị giải toả là 102,94m2(gồm các hộ ông C, ông Y, bà Kh chủ nhà và các hộ thuê nhà ông H, bà V) tại 232 phố ST và hộ thuê ông D tại số 230 phố ST; hộ bà N, ông H ở phía trong nhà 230 phố ST không nằm trong diện giải toả. Như vậy, diện tích còn lại của hai số nhà trên sau giải toả là: 150m2 - 102,94m2 = 47,06m2.
Phần diện tích còn lại của nhà 232 phố ST, gia đình ông C đang sử dụng đã làm sổ đỏ có diện tích 20,92m2, nên phần diện tích còn lại tại số 230 phố ST (do gia đình bà N, ông H đang ở) sau giải toả là 47,06m2- 20,92m2 = 26,14m2. Theo kết quả định giá ngày 22/4/2008 của Toà án thành phố H xác định, diện tích gia đình bà N, ông H đang sử dụng là 24,48m2. Như vậy, có căn cứ khẳng định toàn bộ diện tích phía gia đình bà N, ông H đang sử dụng nằm trong diện tích nhà số 230 phố ST (cũ) nay là số 94 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới) có nguồn gốc thuộc quyền sở hữu của cụ M, cụ Q. Điều này phù hợp với ý kiến của ông H xác định gia đình ông ở tại diện tích tranh chấp từ năm 1958, diện tích khoảng 24m2 cho đến nay không có sự thay đổi về diện tích.
Toàn bộ nội dung liên quan đến quá trình giải phóng mặt bằng năm 1997 tại số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM đều do các đồng thừa kế của cụ M, cụ Q giải quyết với Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng UBND quận BĐ và các cơ quan chức năng có thẩm quyền, điều này càng khẳng định quyền sở hữu diện tích các nhà đất trên là của cụ M và cụ Q trước đây và nay là của các đồng thừa kế hợp pháp của các cụ.
Cụ Q chết năm 1974, cụ M chết năm 1989, căn cứ điểm b khoản 2 Mục I Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 xác định những người thừa kế hợp pháp của cụ M và cụ Q là đồng chủ sở hữu nhà số 230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới).
 
Điểm b khoản 2 Mục I Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC quy định:
b) Người thừa kế hợp pháp nhà ở (người thừa kế có thể trực tiếp giao kết hợp đồng tại thời điểm giao kết hoặc đương nhiên họ là bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ, bên bán, bên tặng cho nhà ở, các bên đổi nhà ở tại thời điểm xảy ra tranh chấp);
Hai cụ M và cụ Q sinh được 03 người con là ông Nguyễn Văn A, bà Nguyễn Thị X, ông Nguyễn Ngọc C. Trong đó, ông A chết năm 1984 có vợ là bà Nguyễn Thị Kh và 05 người con là bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Thị Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B; bà X chết năm 1973, chồng bà X là ông Nguyễn Văn Y chết năm 2003 có 04 người con là bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V.
Ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Thị Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B, bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V là các đồng thừa kế hợp pháp của cụ M và cụ Q nên là đồng sở hữu chủ hai ngôi nhà đất tại địa chỉ số230 và 232 phố ST (cũ) nay là số 94 và 96 phố KM - quận BĐ - thành phố H (số mới) của cụ M, cụ Q để lại nên có đủ tư cách nguyên đơn trong vụ án đòi nhà tại 94 phố KM - quận BĐ - thành phố H (tức số 230 phố ST cũ).
Phía gia đình bà N, ông H đang ở số 94 phố KM - quận BĐ - thành phố H (tức số 230 phố ST cũ) theo ông H cho biết không có một loại giấy tờ nào chứng minh quyền sở hữu, sử dụng nhà, đất ngoài hộ khẩu đăng ký thường trú. Thực tế, phía gia đình ông H cũng không xuất trình được giấy tờ tài liệu nào liên quan đến diện tích nhà đất mà gia đình ông H đang ở, nên gia đình bà N, ông H không phải là chủ sở hữu diện tích họ đang ở.
- Xét nội dung công sức sửa chữa xây dựng của bên
bị đơn:
Các bên đương sự trong vụ án đều thống nhất trên cơ sở kiến trúc cũ có sẵn của chủ nhà, bên bị đơn đã nhiều lần tiến hành sửa chữa. Theo kết quả định giá ngày 22/4/2008 của Toà án thành phố H xác định toàn bộ giá trị xây dựng tại diện tích bị đơn đang ở có trị giá là 173.264.000 đồng (các bên đương sự thống nhất kết quả định giá). Do không tách được kiến trúc cũ của bên chủ nhà và kiến trúc do bên bị đơn cải tạo sửa chữa, nên bên nguyên đơn tự nguyện thanh toán toàn bộ số tiền 173.264.000 đồng và số tiền 6.400.000 đồng tiền gia đình ông H lợp mái tôn sau ngày 22/4/2008 cho bên bị đơn khi lấy được nhà. Sự tự nguyện của nguyên đơn phù hợp pháp luật nên được ghi nhận.
Về việc thanh toán số tiền thuê nhà:
Do các nguyên đơn tự nguyện không yêu cầu gia đình bà N, ông H thanh toán khoản tiền thuê nhà từ năm 1989 cho đến nay. Việc tự nguyện của các nguyên đơn là phù hợp với pháp luật nên được chấp nhận. Vì vậy, gia đình bà N, ông H
không phải thanh toán số tiền thuê nhà từ năm 1989 cho các nguyên đơn.
Từ các phân tích trên, yêu cầu của các nguyên đơn phù hợp với pháp luật nên được chấp nhận.
Từ những phân tích trên, vụ việc có thể được giải quyết như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu đòi nhà cho thuê của của các nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Kh, bà Nguyễn Thị K, ông Nguyễn Ngọc L, bà Nguyễn Ngọc Ch, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh B, bà Nguyễn Thị Việt Ph, ông Nguyễn Việt T, ông Nguyễn Ngọc Q, ông Nguyễn Ngọc V (Bà K, bà Ch, bà H, ông B, bà Ph, ông T, ông Q, ông V cùng uỷ quyền cho ông C) đối với bà Nguyễn Thị N và ông Nguyễn Thế H tại số 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H.
2. Buộc bà N, gia đình ông H và những người có tên trong hộ khẩu hoặc không có hộ khẩu nhưng thường xuyên sinh sống tại số 94 phố KM (tức 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố Nội phải trả lại toàn bộ diện tích nhà đất tại 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H cho phía các nguyên đơn có tên nêu trên.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của phía nguyên đơn có trách nhiệm thanh toán cho phía bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan về phía bị đơn do ông Nguyễn Thế H đại diện, giá trị xây dựng tại số 94 phố KM (tức số 230 phố ST cũ) - quận BĐ - thành phố H là 179.664.000 đồng.
4. Ghi nhận sự tự nguyện của phía nguyên đơn (gồm các người có tên trên) không yêu cầu gia đình bà N, ông H thanh toán khoản tiền thuê nhà từ năm 1989 cho đến nay.
 
 
Nguồn tin: Bộ Tư Pháp

Luật Sư Chuyên Về Khiếu Nại Đất Đai

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

ĐƠN KHIẾU NẠI

(V/v: Yêu cầu giải quyết việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất bị UBND xã Tân Khánh lấn chiếm, phần chưa được cấp giấy chứng nhận, cấp giấy chứng nhận đất thổ cư trong hạn mức theo quy định và bồi thường hoa màu trên đất do UBND xã Tân Khánh chặt phá trái quy định)

Kính gửi:

                            

Đồng kính gửi

Người khiếu nại        : 

Địa chỉ liên hệ          : 

Nội dung khiếu nại:

Vào năm 1984 cha tôi là ông Lê Duy Thụy có tạo lập được mảnh đất tại Phố Chợ Tân Khánh với diện tích là: 25m x 35m. Cha tôi đã bán cho ông Nguyễn Bá Thủy diện tích đất là ngang 5m. Vì vậy tổng diện tích đất gia đình tôi  còn lại vào là ngang 20m dài 35m.

Vào năm 1990 UBND xã Tân Khánh có lập văn bản xác định mốc giới diện tích đất sử dụng của gia đình tôi dài 25m gia đình tôi đã đóng thuế đầy đủ cho UBND xã Tân Khánh hàng năm lên tới 6.000.000 đồng cho tổng toàn diện tích ngang 20m dài 35m. Đến năm 1993 UBND xã Tân Khánh phối hợp UBND huyện Phú Bình cấp sổ cho gia đình tôi diện tích đất ngang  như vậy là không đủ diện tích đất mà gia đình tôi đã tạo lập và đóng thuế là ngang 20m dài 35m.

Đến ngày 10/06/1993 cha tôi có tặng cho tôi phần đất diện tích 11m mặt đường, tôi có xây nhà và công trình phụ chiều dài là 30m. Gia đình tôi sử dụng diện tích đất này từ năm 1993 để ở phần còn lại làm đất vườn trồng cây lâu năm như: xoài, mít, nhãn, bạch đàn…

Năm 2006 cha tôi tách sổ riêng cho tôi diện tích đất là 40m2. Đến năm 2008 tôi sửa chữa và tháo dỡ nhà và các công trình phụ, sử dụng phần đất cha tôi tạo lập được từ năm 1984 nhưng UBND xã Tân Khánh không cho gia đình tôi sử dụng và lập biên bản bắt gia đình tôi đóng thuế đất với diện tích đất thổ cư trong bản đồ đo vẽ năm 2008 do địa chính xã Tân Khánh vẽ (chiều dài là 23m)

Gia đình tôi đã hoàn tất nghĩa vụ nộp thuế cho UBND xã Tân Khánh với chiều dài diện tích đất là 25m, đồng thời tôi cũng đã làm đơn yêu cầu được cấp GCNQSDĐ nhưng không được giải quyết phần chưa được cấp giấy chứng nhận.

Ngày 24/02/2009, phần diện tích đất sử dụng nằm cạnh UBND xã Tân Khánh có chiều ngang là 2,8m thì trong quá trình xúc đất thì  UBND xã Tân Khánh đến lập biên bản và gia đình tôi trừ lại diện tích là 2,8m  để không sập móng UBND xã Tân Khánh chứ không phải là mốc giới đất giữa UBND xã với đất của gia đình tôi. Vì khi xúc xúc thì gia đình tôi đã để lại khoảng 2.8mw so với móng nhà của UBND xã tránh bị sập chứ không phải gia đình tôi cho hay nhường cho UBND phần diện tích đất này.

Sau khi cha mẹ tôi mất. Ngày 11/10/2014 UBND xã Tân Khánh cho người vào chặt cây(cây trồng lâu năm : mít, xoài, nhãn…) trong đất vườn nhà tôi. Gia đình tôi khiếu nại lên UBND xã Tân Khánh thì nhận được biên bản trả lời rằng: cha tôi là ông Lê Duy Thụy không đủ bằng chứng sở hữu đất từ năm 1984 đến năm 2008. Tôi không đồng ý với biên bản trả lời của UBND xã Tân Khánh vì gia đình tôi tạo lập ai cũng biết và đóng thuế đầy đủ, đã trồng nhiều cây hoa màu, câu ăn quả, cây lâu năm từ lâu và sử dụng ổn định từ đó đến nay đồng thời cũng đã nộp thuế từ năm 1990 đến nay và không có bất kỳ ai tranh chấp đất với gia đình tôi. Nhưng khi tôi làm đơn yêu cầu xin được cấp GCNQSDĐ thì không được chấp nhận cấp phần diện tích đất còn lại chưa được cấp mà không được trả lời bằng căn cứ pháp ký cụ thể bằng văn bản của UBND xã Tân Khánh.

Sau đó UBND xã Tân Khánh có thông báo yêu cầu gia đình tôi tháo dỡ tài sản là công trình, cây cối phía sau hội trường UBND xã Tân Khánh là không có căn cứ. Vì diện tích đất ngang 2,8 m này gia đình tôi đã nộp thuế từ năm 1990, là nguồn gốc đất của gia đình tôi.

Đến ngày 19/5/2017 chủ tịch UBND xã Tân Khánh cho người vào vườn nhà tôi chặt cây lần 2 để bán. Đến ngày 26/6/2017 tôi nhận được giấy mời lên UBND xã Tân Khánh thỏa thuận về việc đền bù. Nhưng đến nay tôi không nhận được khoản tiền đền bù nào.

Gia đình tôi sử dụng phần đất tạo dựng từ năm 1984 diện tích là ngang 20m dài 35m. Đã được cấp GCNQSDĐ đất 1 phần diện tích đất nêu trên. Phần diện tích đất còn lại chưa được cấp GCNQSDĐ. Tuy nhiên gia đình tôi đã nộp thuế sử dụng đất từ năm 1990 và sử dụng vào mục đích ở và làm đất vườn trồng cây lâu năm từ năm 1984 đến nay, đóng thuế đầy đủ, không bị tranh chấp.

Căn cứ theo quy định pháp luật hiện hành. Cụ thể quy định tại Khoản 2 Điều 101 Luật đất đai năm 2014 quy định như sau :

“Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

..................................................................................................................................................................

2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”

Theo quy định tại điểm a, điểm d khoản 1 Điều 20 nghị định 43/2014/NĐ-CP. Khoản 1 và điểm a Khoản 2 Điều 21 nghị định 43/2014/NĐ-CP.

Điều 20. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai

Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (công nhận quyền sử dụng đất) cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị định này và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 101 của Luật Đất đai, Điều 23 của Nghị định này được thực hiện theo quy định như sau:

1. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất; việc sử dụng đất tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn hoặc quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt (sau đây gọi chung là quy hoạch) hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đã sử dụng đất từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau:

a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức công nhận đất ở quy định tại Khoản 4 Điều 103 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức công nhận đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở.

Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận đất ở; trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;

b) Đối với thửa đất có công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì công nhận đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ theo diện tích thực tế đã xây dựng công trình đó; hình thức sử dụng đất được công nhận như hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất là ổn định lâu dài;

c) Đối với thửa đất có cả nhà ở và công trình xây dựng để sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở thì diện tích đất ở được công nhận theo quy định tại Điểm a Khoản này; phần diện tích còn lại đã xây dựng công trình sản xuất, thương mại, dịch vụ phi nông nghiệp thì được công nhận theo quy định tại Điểm b Khoản này;

d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại các Điểm a, b và c Khoản này thì được xác định là đất nông nghiệp và được công nhận theo quy định tại Khoản 5 Điều này.

Theo Điều 21 của Nghị định về Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định

1. Sử dụng đất ổn định là việc sử dụng đất liên tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận).

2. Thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định căn cứ vào thời gian và nội dung có liên quan đến mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau đây:

a) Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất;

b) Biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc sử dụng đất, biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc xây dựng công trình gắn liền với đất;

.........................................................................................................

i) Bản đồ, sổ mục kê, tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ;

k) Bản kê khai đăng ký nhà, đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã tại thời điểm kê khai đăng ký.

3. Trường hợp thời điểm sử dụng đất thể hiện trên các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này có sự không thống nhất thì thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định theo giấy tờ có ghi ngày tháng năm sử dụng đất sớm nhất.

4. Trường hợp không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất.

Căn cứ theo quy định trên thì gia đình tôi sử dụng phần đất này ổn định, và đã nộp thuế từ năm 1990 nay tôi yêu cầu được cấp GCNQSDĐ là có căn cứ và đúng quy định pháp luật. Biên lai tôi nộp thuế đất từ 2008 là 15.000.000 đồng, năm 2008 tới 6.000.000 đồng ghi rõ nộp thuế đất, làm giấy chứng nhận. Thuế đất nông nghiệp không nhiều như vậy vì đây là thuể chuyển mục đích đất nên tôi phải được xem xét cấp giấy chứng nhận.

Bằng văn bản này tôi kính đề nghị UBND huyện Phú Bình và UBND xã Tân Khánh và Bí thư huyện Phú Bình xem xét giải quyết cho tôi với các yêu cầu sau đây :

Đề nghị UBND huyện Phú Bình cấp GCNQSDĐ phần diện tích đất gia đình tôi tạo lập sử dụng ổn định từ 1984 đến nay, kể cả phần diện tích đất ngang 2,8m tiếp giáp với UBND xã Tân Khánh.

Tôi được cấp GCNQSDĐ tại thửa đất số 1934 ; Tờ bản đồ số 21 ; diện tích đất 212.5m2. Tôi chỉ được cấp 40m diện tích đất thổ cư. Nay tôi đề nghị UBND huyện Phú Bình cấp thêm cho tôi diện tích sử dụng đất thổ cư là 260m2 là phần diện tích đất thổ cư trong hạn mức pháp luật cho phép là 300m2.

Yêu cầu UBND xã Tân Khánh bồi thường cho tôi phần cây cối, hoa màu bị UBND xã chặt thu hồi theo giá thị trường, tạm tính : 50.000.000 đồng.

Kính mong quý cơ quan xem xét và giải quyết cho tôi.

Tôi xin chân thành cảm ơn !

……………, ngày       tháng        năm

Người khiếu nại

Đính kèm : Biên lai đóng thuế đất 2008-2009, các  biên bản lập tại xã Tân khánh, và các hồ sơ liên quan đến đất gia đình tôi.

Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

Tư vấn và giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà đất

Hiện nay phần lớn những tranh chấp tại tòa án là tranh chấp liên quan đến hợp đồng mua bán nhà đất vì hợp đồng mua bán nhà đất không đơn giản và dễ dàng như những loại hợp đồng khác bởi nhà ở là một trong những tài sản có giá trị lớn và có rất nhiều rủi ro trong việc mua bán nếu không tuân thủ các quy định của pháp luật.

Hợp đồng mua bán nhà đất là loại hợp đồng mà có rất nhiều quy định pháp luật ràng buộc và phải có công chứng, tuy nhiên không phải người nào tham gia ký kết hợp đồng mua bán nhà đất cũng biết điều này nên dẫn đến những tranh chấp phát sinh.

Chúng tôi có đội ngũ luật sư, chuyên viên tư vấn chuyên nghiệp về hợp đồng mua bán nhà đất sẽ tham gia tư vấn những vấn đề cần lưu ý khi giao kết hợp đồng mua bán nhà đất, cũng như thực hiện việc giải quyết tranh chấp đất đai, đại diện theo ủy quyền hay cử luật sư tham gia tranh tụng để giúp khách hàng giải quyết những tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà đất. Chúng tôi sẽ giúp quý khách loại trừ rủi ro với những những vấn đề sau:

1.Tư vấn pháp luật về hợp đồng mua bán nhà đất

 – Kiểm tra tính hợp pháp của giấy tờ chủ quyền nhà đất;

– Kiểm tra quy hoạch nhà đất;

– Tư vấn và giải thích cụ thể các quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán nhà đất cho khách hàng trước khi giao kết cũng như trong quá trình thực hiện hợp đồng;

– Đại diện hoặc cùng khách hàng đàm phán với khách hàng về nội dung hợp đồng mua bán nhà đất;

– Tư vấn những vấn đề rủi ro trong quá trình giao kết hợp đồng và những điều cần tránh;

– Tư vấn những trường hợp hủy bỏ, chấm dứt thực hiện hợp đồng, trường hợp bất khả kháng bồi thường thiệt hại hợp đồng mua bán nhà đất;

– Tư vấn về việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng;

– Tư vấn giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà đất;

– Tư  vấn về  việc nghĩa vụ nộp thuế, giảm thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ …;

– Tư vấn và lập hợp đồng đặt cọc;

– Soạn thảo hợp đồng chuyển nhượng tại phòng công chứng;

– Tiến hành khai thuế đăng bộ,  xóa thuế chấp …;

2. Giải quyết về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà đất

– Xác định tính rủi ro trong hợp đồng mua bán nhà đất của khách hàng;

– Kiểm tra cơ sở pháp lý, hỗ trợ khách hàng trong việc thương lượng giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà đất;

– Tham gia tố tụng, đại diện theo ủy quyền hoặc cử luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi tại các cấp Tòa án;

– Hướng dẫn về việc kháng cáo kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan thi hành án đối với việc thi hành bản án, quyết định của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà đất.

– Tư vấn, thực hiện xác minh điều kiện thi hành án, hướng dẫn và hỗ trợ khách hàng thực hiện thủ tục thi hành bản án quyết định của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà đất.

3. Dịch vụ pháp lý của chúng tôi

Tư vấn và giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà đất là lĩnh vực chuyên sâu của Văn phòng Luật sư Gia Đình với đội ngũ Luật sư, chuyên viên tư vấn giàu kinh nghiệm sẽ tư vấn và giải quyết vấn đề của khách hàng một cách hiệu quả nhất.

Trân trọng cảm ơn Qúy khách đã tin tưởng chúng tôi trong thời gian qua.

Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng Đặt Cọc

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

Theo quy định tại điều 328 Bộ luật dân sự quy định về Đặt cọc như sau:

1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.

2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Căn cứ theo quy định trên bên nhận cọc nếu vi phạm phải đến cọc gấp đôi, bên giao cọc nếu vi phạm hợp đồng sẽ mất tiền cọc.

Quy định này được áp dụng trong mua bán nhà đất, kinh doanh thương mại và dân sự.

Trân trọng.

LS TRẦN MINH HÙNG

Khi Mua Bán Nhà Đất Phải Đóng Những Loại Thuế Gì?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

Trường hợp được miễn thuế TNCN

Tại Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) hiện hành quy định cụ thể về trường hợp được miễn thuế TNCN như sau: Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp chỉ có một nhà ở hoặc đất ở duy nhất.

Theo quy định tại Điều 3 Thông tư 111/2013/TT-BTC và Điều 4 Nghị định số 65/2013/NĐ-CP quy định về trường hợp được miễn thuế phải đồng thời đáp ứng các điều kiện sau:

  • Chỉ có duy nhất quyền sở hữu một nhà ở hoặc quyền sử dụng một thửa đất ở (gồm cả trường hợp có nhà ở hoặc công trình xây dựng gắn liền với thửa đất đó) tại thời điểm chuyển nhượng.
  • Có quyền sở hữu nhà ở, có quyền sử dụng đất ở tính đến thời điểm chuyển nhượng tối thiểu là 183 ngày.
  • Chuyển nhượng toàn bộ đất ở, nhà ở.

Tuy Luật đã quy định rất rõ, nhưng trên thực tế không phải ai cũng biết điều này và việc nộp thuế “oan” là điều dễ hiểu.

 Hóa ra, luật quy định rất rõ về trường hợp được miễn thuế TNCN khi chỉ sở hữu duy nhất một nhà ở. Để chứng minh cho việc đó, anh bạn của chị chỉ cần làm bản cam kết gửi lên ủy ban huyện xác nhận đây là căn nhà duy nhất thuộc quyền sở hữu của anh và có quyền sử dụng đất tính đến thời điểm chuyển nhượng là 183 ngày, đồng thời, cam kết chuyển nhượng toàn bộ nhà ở cho bên mua kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sổ hộ khẩu công chứng là bên thuế họ chấp nhận được miễn thuế TNCN.

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006