Luật Sư Doanh Nghiệp

Luật Sư Tư Vấn Tăng Vốn Điều Lệ

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Doanh Nghiệp

Việc tăng vốn điều lệ của Công ty TNHH 1 thành viên được quy định tại Điều 87 Luật Doanh nghiệp 2014 như sau:

“[…]

2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên tăng vốn điều lệ bằng việc chủ sở hữu công ty đầu tư thêm hoặc huy động thêm vốn góp của người khác. Chủ sở hữu quyết định hình thức tăng và mức tăng vốn điều lệ.

 
 

3. Trường hợp tăng vốn điều lệ bằng việc huy động thêm phần vốn góp của người khác, công ty phải tổ chức quản lý theo một trong hai loại hình sau đây:

a) Công ty trách nhiệm hai thành viên trở lên và công ty phải thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hoàn thành việc thay đổi vốn điều lệ;

b) Công ty cổ phần theo quy định tại Điều 196 của Luật này”

Như vậy trong trường hợp của ông, ông đang muốn tăng vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn góp của em trai ông. Do số lượng thành viên sau khi thay đổi là 2 nên ông cần thực hiện thủ tục chuyển đổi loại hình công ty từ loại hình công ty TNHH 1 thành viên  sang loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên. Đồng thời, phải thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp cho Phòng đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hoàn thành việc thay đổi vốn điều lệ.

Tranh chấp về Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Doanh Nghiệp

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Số: 75/2007/KDTM-ST

Ngày: 07/03/2007

v/v:  Tranh chấp về Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

                                                                         

NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM:

1. Ông Phạm Lý Hùng  - Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

2. Bà Lê Thị Phương Nhi  - Hội thẩm nhân dân

3. Bà Đào Thục Viên  - Hội thẩm nhân dân

Bà Phan Ngọc Mỹ Linh – Cán bộ Tòa án nhân dân Tp. HCM - Thư ký phiên toà

Trong các ngày 05 và 07 tháng 3 năm 2007, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 566/2006/TLST-KDTM ngày 15 tháng 8 năm 2006 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 374/2007/QĐST-KDTM ngày 28 tháng 02 năm 2007 giữa các đương sự:

NGUYÊN ĐƠN :
Ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN (Có mặt)

Thường trú : 174/21 Lê Quốc Hưng, Phường 12, Quận 4, TPHCM

Đại diện : Ông Nguyễn Cao Nghiêm, GUQ ngày 30/01/2007

(Có mặt)

BỊ ĐƠN :
Ông PHẠM THẾ THANH

Thường trú : 152/13 Lý Chính Thắng, Phường 7, Quận 3, TPHCM

Tạm trú : Aáp 5, xã Đạo Thạnh, Tp. Mỹ Tho, Tiền Giang

Đại diện : Ông Phạm Tấn Dũng, GUQ ngày 20/12/2006

(Có mặt)

NGỪỜI CÓ QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ LIÊN QUAN: 

Ông NGUYỄN VĂN TUẤN

Thường trú : 152/13 Lý Chính Thắng, Phường 7, Quận 3, TPHCM

Đại diện : Ông Phạm Tấn Dũng, GUQ ngày 27/02/2007

Bà NGUYỄN THỊ HỒNG

Tạm trú : 46/3 Lê Thị Hồng Gấm, TP. Mỹ Tho, Tiền Giang

Đại diện : Ông Phạm Tấn Dũng, GUQ ngày 07/02/2007

(Có mặt)

NHẬN THẤY

Nguyên đơn (ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN) trình bày :

Ngày 15/7/2005, ông PHẠM THẾ THANH là Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc Công ty cổ phần ĐB Gas có ký Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ 8.500 cổ phần trong Công ty cổ phần ĐB Gas cho ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN với giá chuyển nhượng là 1,5 tỷ đồng và đã nhận đủ số tiền này từ ông Sơn. Tuy nhiên, sau đó ông Thanh không thực hiện việc làm thủ tục đăng ký thay đổi Chủ tịch HĐQT của công ty. Do đó, ông Sơn làm đơn khởi kiện yêu cầu ông Thanh phải trả lại số tiền chuyển nhượng cổ phần đã nhận 1,5 tỷ đồng nói trên.

Bị đơn (ông PHẠM THẾ THANH) trình bày :

Xác nhận chỉ ký khống vào tờ giấy trắng để ông Sơn sử dụng vào việc liên hệ mua gas tại Hà Nội, thực tế không có ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Nguyễn Văn Tuấn, bà NGUYỄN THỊ HỒNG) trình bày :

Ông PHẠM THẾ THANH không có thông qua Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần ĐB Gas việc chuyển nhượng cổ phần nói trên. Các cổ đông sáng lập còn lại (ông Tuấn và bà Hồng) không chấp nhận việc chuyển nhượng này.

Tòa án đã triệu tập hòa giải nhiều lần nhưng do bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có mặt (chỉ có ông Phạm Tấn Dũng đại diện nhưng tại thời điểm hòa giải chưa có giấy ủy quyền hợp lệ) nên không thể tiến hành hòa giải được và Tòa án đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay :

Nguyên đơn (ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN) : Yêu cầu ông PHẠM THẾ THANH phải hoàn trả 1,5 tỷ đồng tiền chuyển nhượng cổ phần đã nhận ngay sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đồng ý hoàn trả cho Công ty cổ phần ĐB Gas toàn bộ các giấy tờ đã nhận thế chấp từ ông Thanh ngay sau khi nhận được đủ tiền do ông Thanh hoàn trả.

Bị đơn (ông PHẠM THẾ THANH) : Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn vì hợp đồng chuyển nhượng cổ phần giữa hai bên chỉ là hợp đồng ký khống (khi ký chưa có nội dung). Đề nghị ông Sơn trả lại các giấy tờ đã nhận của công ty.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ông Nguyễn Văn Tuấn, bà NGUYỄN THỊ HỒNG) : Thống nhất với ý kiến của bị đơn, việc chuyển nhượng cổ phần giữa ông Thanh và ông Sơn chưa được thông qua Đại hội đồng cổ đông của Công ty cổ phần ĐB Gas.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :

1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án :

Đây là tranh chấp về kinh doanh thương mại (mua bán cổ phiếu) giữa các cá nhân đều có mục đích lợi nhuận, bị đơn cư trú tại TPHCM. Vì vậy, căn cứ vào khoản 4 Điều 29, Điều 34, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 1 Nghị quyết số 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 của Uûy ban thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự cho các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và mục b điểm 1.1 khoản 1 phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, vụ tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TPHCM (Tòa kinh tế) theo thủ tục tố tụng dân sự.

2. Về thời hiệu khởi kiện :

Ngày 15/7/2005, các bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Ngày 09/5/2006, nguyên đơn nộp đơn khởi kiện tại Tòa án.

Căn cứ vào điểm a, khoản 3, Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án trong thời hạn quy định (2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị xâm phạm), do đó, cần được chấp nhận thụ lý để giải quyết.

3. Về nội dung tranh chấp :

Xét yêu cầu của nguyên đơn đòi ông PHẠM THẾ THANH phải hoàn trả 1,5 tỷ đồng tiền chuyển nhượng cổ phần đã nhận:

Căn cứ vào chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là bản Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 15/7/2005 đã được người đại diện hợp pháp của bị đơn xác nhận chữ ký tại phiên tòa, có đủ cơ sở để xác định giữa ông PHẠM THẾ THANH và ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN có thỏa thuận việc chuyển nhượng 8.500 cổ phần của ông PHẠM THẾ THANH trong Công ty cổ phần ĐB Gas cho ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN với giá chuyển nhượng là 1,5 tỷ đồng và bên chuyển nhượng là ông PHẠM THẾ THANH đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng nói trên.

Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai nhận của các đương sự tại phiên tòa thì việc chuyển nhượng cổ phần nói trên giữa ông Thanh và ông Sơn không được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần ĐB Gas theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực tại thời điểm các bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, Công ty cổ phần ĐB Gas mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chưa được 3 năm). Mặt khác, Công ty cổ phần ĐB Gas cũng chưa thực hiện việc đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh (về việc chuyển nhượng cổ phần của ông PHẠM THẾ THANH là một trong 3 cổ đông sáng lập của công ty) theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật doanh nghiệp năm 1999.

Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự năm 1995 (có hiệu lực tại thời điểm các bên ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần), hợp đồng chuyển nhượng cổ phần nói trên giữa các bên là hợp đồng dân sự vô hiệu và các bên có trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 146 Bộ luật dân sự năm 1995.

Từ sự phân tích trên cho thấy yêu cầu của nguyên đơn đòi ông PHẠM THẾ THANH phải hoàn trả số tiền chuyển nhượng cổ phần 1,5 tỷ đồng là có căn cứ và hợp pháp, cần được chấp nhận.

Về ý kiến của đại diện bị đơn cho rằng hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 15/7/2005 mà nguyên đơn dùng làm chứng cứ để khởi kiện đã được ông PHẠM THẾ THANH ký khống để sử dụng vào việc khác (chưa ghi nội dung), thực tế ông Thanh hoàn toàn không có thỏa thuận chuyển nhượng và cũng chưa có nhận số tiền chuyển nhượng cổ phần 1,5 tỷ đồng từ ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN nên không chấp nhận hoàn trả số tiền này cho ông Sơn: Ý kiến này không có căn cứ để được chấp nhận vì tại Biên bản ghi lời khai do Phòng CSĐTTP về TTXH Công an TPHCM lập ngày 15/02/2006 cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị đơn và người đại diện của bị đơn đã xác nhận chữ ký của bên chuyển nhượng trong bản hợp đồng chuyển nhượng cổ phần mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án để làm căn cứ khởi kiện đúng là của chữ ký ông PHẠM THẾ THANH mà không có chứng cứ nào để chứng minh việc ký đó là ký khống.

4. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 15, 18 và 19 Nghị định số 70/CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ về án phí, lệ phí Tòa án :

- Ông PHẠM THẾ THANH phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả cho ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN.

- Ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Aùp dụng khoản 1 Điều 19, điểm c khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 58 Luật doanh nghiệp năm 1999; Điều 131 và khoản 2 Điều 146 Bộ luật dân sự năm 1995;

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông PHẠM THẾ THANH phải có trách nhiệm hoàn trả cho ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN số tiền chuyển nhượng cổ phần đã nhận là 1.500.000.000 đ (một tỷ năm trăm triệu đồng).

Ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN có trách nhiệm hoàn trả cho người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần ĐB Gas là bà NGUYỄN THỊ HỒNG các giấy tờ (bản chính) sau đây ngay sau khi nhận đủ số tiền nói trên:

- 34 tờ Hóa đơn giá trị gia tăng mua vật liệu và chi phí thi công xây dựng của bên bán phát hành cho bên mua là Công ty cổ phần ĐB Gas, bao gồm các hóa đơn: số 0069686 ngày 07/01/2005; số 0014809 ngày 27/5/2005; số 0014785 ngày 30/5/2005; số 0070601 và số 0070602 cùng ngày 01/6/2005; số 0070603 và số 0070604 cùng ngày 02/6/2005; số 0010993 ngày 03/06/2005; số 0066959 ngày 13/6/2005; số 0045003 ngày 10/7/2005; số 0026414 ngày 25/7/2005; số 0054911 ngày 28/6/2004; số 0053078 ngày 04/7/2004; số 0041360 ngày 04/7/2004; số 0041364 ngày 06/7/2004; số 0092758 ngày 07/7/2004; số 006355 ngày 07/7/2004; số 0020505 ngày 20/7/2004; số 0077760 ngày 20/8/2004; số 0007850 ngày 29/10/2004; số 0025076 và số 0022795 cùng ngày 02/11/2004; số 0083660 ngày 04/11/2004; số 0083745 và số 0098518 cùng ngày 05/11/2004; số 0079456 ngày 06/11/2004; số 0064560 ngày 07/11/2004; số 0065448 và số 0065449 cùng ngày 09/11/2004; số 0099813 và số 0099814 cùng ngày 12/11/2004; số 0025099 ngày 29/11/2004; số 0030454 ngày 27/12/2004; số 010216 ngày 05/01/2005.

- Chứng nhận bảo hiểm cháy và các rủi ro phụ số 05/00/D10/93120/0003 của Công ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông cấp cho Công ty cổ phần ĐB Gas ngày 26/3/2005.

- Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm số 05/00/D10/93330/0003 của Công ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông cấp cho Công ty cổ phần ĐB Gas ngày 19/4/2005.

2. Về án phí :

- Ông PHẠM THẾ THANH phải chịu án phí sơ thẩm là 28.500.000 đ (hai mươi tám triệu năm trăm ngàn đồng), nộp tại Thi hành án dân sự TPHCM.

- Ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 14.250.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 002723 ngày 01 tháng 8 năm 2006 của Thi hành án dân sự TPHCM)

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của ông TRƯƠNG TRỌNG TRƯỜNG SƠN., nếu ông PHẠM THẾ THANH không chịu thanh toán số tiền nói trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Một người làm giám đốc/tổng giám đốc nhiều công ty được không?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Doanh Nghiệp

Một người làm giám đốc/tổng giám đốc nhiều công ty được không?

Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bỏ điều luật quy định về điều kiện làm giám đốc công ty cổ phần tại Khoản 2 Điều 116 Luật Doanh nghiệp 2005 như sau : “Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty không được đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác.”,

Và Luật Doanh nghiệp 2014 đưa ra quy định về tiêu chuẩn, điều kiện làm Giám đốc, Tổng giám đốc chung cho các công ty TNHH và công ty cổ phần như sau:

 “Điều 65. Tiêu chuẩn và điều kiện làm Giám đốc, Tổng giám đốc

Có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng không được quản lý doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 18 của Luật này.
Có trình độ chuyên môn, kinh nghiệmtrongquản trị kinh doanh của công ty, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác.

Đối với công ty con của công ty có phần vốn góp, cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ thì ngoài các tiêu chuẩn và điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không được là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người quản lý công ty mẹ và người đại diện phần vốn nhà nước tại công ty đó.”
 
Bên cạnh đó Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định nếu một trong hai công ty hoặc cả hai công ty đều là Doanh nghiệp Nhà nước (do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ) thì bạn không thể đồng thời làm giám đốc hai công ty này theo quy định tại Khoản 8 Điều 100 Luật Doanh nghiệp 2014 như sau:

“Điều 100. Tiêu chuẩn, điều kiện của Giám đốc, Tổng giám đốc

…. 8. Không được kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác.”

Căn cứ theo các quy định trên, có thể xác định một người có làm Giám đốc công ty TNHH và đồng thời làm Giám đốc công ty cổ phần khi bạn đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 65 Luật Doanh nghiệp 2014, Điều lệ công ty và không có công ty nào là doanh nghiệp Nhà nước.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Bàn về trách nhiệm dân sự của pháp nhân

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Doanh Nghiệp

Bàn về trách nhiệm dân sự của pháp nhân

Tóm tắt: Hiện nay, các quy định về trách nhiệm dân sự của pháp nhân được Bộ luật Dân sự và các luật chuyên ngành quy định khá cụ thể. Các quy định về trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2015 được kế thừa các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Bài viết tập trung nghiên cứu khi nào thì đặt ra trách nhiệm dân sự của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và một số vấn đề vướng mắc trong thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân. Abstract: At present, regulations on liability of legal person (entity) are rather concretely provided in the Civil Code and other laws. Regulations on liability of legal person in the Civil Code of 2015 are the succession of the regulations of the Civil Code of 2005. The article concentrates on the study of when the liability of legal person will be raised in accordance with regulations of the Civil Code of 2015 and some entanglements in the practice of implementing regulations on liability of legal person.
1. Khái quát về trách nhiệm dân sự của pháp nhân
1.1. Bàn luận về trách nhiệm dân sự của pháp nhân
Với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật, pháp nhân hoạt động thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền. Khi tham gia các quan hệ pháp luật, thì “một pháp nhân được hưởng những quyền và có những nghĩa vụ tương tự như thể nhân, trừ những quyền và nghĩa vụ, vì tính chất của chúng, chỉ có thể dành cho hoặc mắc chịu bởi một thể nhân” (Điều 70, Các quyển I - VI)[1].
Việc tạo ra pháp nhân với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt đối với quyền lợi của bên thứ ba trong quan hệ pháp luật. Khi bên thứ ba có tranh chấp với pháp nhân là một tổ chức sẽ không phải thực hiện việc khởi kiện từng thành viên của pháp nhân, mà chủ thể bị đơn trong trường hợp này là pháp nhân. Pháp nhân bảo đảm trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng toàn bộ tài sản có được từ khi thành lập và trong quá trình hoạt động của pháp nhân. Trách nhiệm đó được gọi là trách nhiệm dân sự của pháp nhân.
Trách nhiệm dân sự của pháp nhân có thể phát sinh từ quan hệ hợp đồng mà pháp nhân tham gia hoặc trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân có thể phát sinh từ nghĩa vụ ngoài hợp đồng (trách nhiệm bồi thường thiệt hại) hoặc từ nghĩa vụ theo hợp đồng (trách nhiệm dân sự theo hợp đồng). Trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sinh từ quan hệ hợp đồng trong trường hợp pháp nhân không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Hợp đồng là nguồn phát sinh chủ yếu của nghĩa vụ nên trách nhiệm dân sự của pháp nhân được đặt ra là do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng. “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân”[2]. Khi người đại diện theo pháp luật thực hiện các hành vi nhân danh pháp nhân thì hành vi của người đó đã làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, đồng thời cũng làm phát sinh trách nhiệm dân sự của pháp nhân. Trách nhiệm dân sự của pháp nhân cũng phát sinh trong các trường hợp hoạt động của pháp nhân mà không dựa trên quan hệ hợp đồng. Pháp nhân còn phải chịu trách nhiệm dân sự do hành vi của các thành viên khác của pháp nhân gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao.
Trách nhiệm dân sự của pháp nhân được hiểu là trách nhiệm về tài sản của pháp nhân. Bao hàm hai nội dung như sau: Thứ nhất, tài sản chịu trách nhiệm là tài sản độc lập của pháp nhân. Đó là tất cả các loại tài sản mà pháp nhân sở hữu. Bởi vậy ta có thể nói pháp nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Thứ hai, pháp nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, nhưng cũng chỉ bằng toàn bộ tài sản của mình mà thôi. Nội dung này thể hiện mối quan hệ giữa pháp nhân với thành viên pháp nhân, theo đó, pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho thành viên đối với nghĩa vụ dân sự do thành viên xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, còn thành viên thì không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện[3].
Theo pháp luật của Thái Lan, thì “một pháp nhân buộc phải bồi thường về bất cứ thiệt hại nào, do người quản lý hoặc những người đại diện khác của pháp nhân gây ra cho những người khác trong khi thi hành nhiệm vụ của mình, đồng thời dành quyền khiếu nại những người gây ra thiệt hại đó. Nếu thiệt hại gây ra cho những người khác là do một hành vi không nằm trong phạm vi mục đích hoạt động của pháp nhân, thì những thành viên hoặc những người quản lý tán thành hành vi đó, những người quản lý và những người đại diện khác thực thi hành vi đó phải liên đới chịu bồi thường (Điều 76, Các quyển I - VI)”[4].
1.2. Các nguyên tắc về trách nhiệm dân sự của pháp nhân
- Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự: Các bên phải nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình và tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, nếu không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật[5].
- Pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự về những hành vi được coi là hành vi của pháp nhân: Hành vi của pháp nhân được hiểu là hành vi của người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền nhân danh pháp nhân và hành vi của các thành viên pháp nhân trong phạm vi nhiệm vụ được pháp nhân giao. Trong trường hợp người đại diện của pháp nhân thực hiện với tư cách cá nhân thì sẽ không làm phát sinh trách nhiệm dân sự cho pháp nhân.
- Pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của mình: Tài sản chịu trách nhiệm là tài sản độc lập của pháp nhân. Tài sản của pháp nhân được hình thành bằng sự góp vốn của các chủ sở hữu và tài sản hình thành trong quá trình hoạt động của pháp nhân và riêng biệt với khối tài sản của các thành viên; là tất cả các loại tài sản mà pháp nhân sở hữu và pháp nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Theo Luật Doanh nghiệp, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, cổ đông công ty cổ phần, thành viên góp vốn trong công ty hợp danh chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp hay đã góp vào doanh nghiệp. Khi pháp nhân thực hiện nguyên tắc tách biệt về tài sản cũng là khi xuất hiện một tính pháp lý mới, tách biệt với tính pháp lý của chủ sở hữu hoặc cộng đồng sở hữu. Rõ ràng, tư cách chủ thể của pháp nhân được chứng minh là độc lập với các chủ sở hữu về mặt tài sản. Khi đó, các pháp nhân tham gia các quan hệ tài sản sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến trách nhiệm về tài sản của pháp nhân.
- Pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho thành viên và ngược lại: Pháp nhân sẽ không chịu trách nhiệm đối với nghĩa vụ dân sự do người của pháp nhân xác lập, thực hiện không nhân danh pháp nhân, đồng thời, người của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện.
2. Chế định trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2015
Theo quy định tại Điều 87 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trách nhiệm dân sự của pháp nhân được đặt ra khi:
Thứ nhất, pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân
Người đại diện cho pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Người đại diện của pháp nhân là người thay mặt, nhân danh pháp nhân tiến hành các hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, điều lệ pháp nhân quy định.
Người đại diện theo pháp luật là người đại diện đương nhiên, thường xuyên của pháp nhân trong các quan hệ với người thứ ba. Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Cũng theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, pháp nhân là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (chưa kể trong công ty hợp danh thì tất cả các thành viên hợp danh đều có quyền đại diện cho công ty) có thể có từ hai đại diện pháp luật trở lên và “điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”[6].
Người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân phát sinh trong trường hợp khi người đại diện theo pháp luật của pháp nhân vì lý do nào đó không thể trực tiếp xác lập, thực hiện giao dịch nhân danh pháp nhân, thì họ có thể ủy quyền cho người khác thay mặt pháp nhân tham gia quan hệ pháp luật bằng văn bản ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền chỉ được thực hiện những hoạt động trong phạm vi và thời hạn theo văn bản ủy quyền. Hành vi của người được ủy quyền thực hiện trong phạm vi ủy quyền được coi là hành vi của pháp nhân, vì vậy làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự với pháp nhân.
Về nguyên tắc, pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm dân sự về những hành vi được coi là hành vi của pháp nhân, còn những hành vi thực hiện với tư cách cá nhân không làm phát sinh trách nhiệm dân sự ở pháp nhân. Do vậy, cần phải phân biệt hành vi của cá nhân với hành vi của pháp nhân để xác định trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hành vi đó. Tuy nhiên, cần lưu ý trường hợp người đại diện nhân danh pháp nhân nhưng xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 143 Bộ luật Dân sự năm 2015. Nếu không thuộc các trường hợp này thì người đại diện của pháp nhân phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Trường hợp người không có quyền đại diện lại nhân danh pháp nhân tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong ba trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 2015. Nếu không thuộc ba trường hợp đó thì người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ khi người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.
Về vấn đề này, pháp luật Việt Nam tương đồng với pháp luật dân sự của Nhật Bản, chỉ khác là có trường hợp thì cả người đại diện và pháp nhân đều liên đới chịu trách nhiệm dân sự. Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định: “Khi người đại diện thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng ngoài phạm vi nghĩa vụ đại diện thì người chịu trách nhiệm không phải là pháp nhân mà là người đại diện, theo quy định chung về bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, việc người đại diện trực tiếp hoặc gián tiếp lợi dụng uy tín của pháp nhân hoặc khi người bị thiệt hại là số đông công dân thì Bộ luật Dân sự quy định cả pháp nhân và giám đốc đều liên đới chịu trách nhiệm”[7].
Thứ hai, pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự về nghĩa vụ do sáng lập viên hoặc đại diện của sáng lập viên xác lập, thực hiện để thành lập, đăng ký pháp nhân
Nếu pháp nhân là doanh nghiệp, theo quy định tại Điều 19 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì người thành lập doanh nghiệp được ký các loại hợp đồng phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp trước và trong quá trình đăng ký doanh nghiệp. Trong thực tế sẽ phát sinh hai trường hợp xảy ra: (i) Nếu doanh nghiệp được thành lập thì doanh nghiệp phải tiếp tục thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà người thành lập đã ký kết; (ii) Nếu doanh nghiệp không được đăng ký thành lập thì người ký kết hợp đồng sẽ chịu trách nhiệm hoặc người thành lập doanh nghiệp liên đới chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng đó.
Thứ ba, trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sinh trong trường hợp người của pháp nhân gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao
Người của pháp nhân được hiểu là bất cứ thành viên nào của pháp nhân, được pháp nhân tuyển dụng vào làm việc theo các quan hệ hợp đồng dài hạn, ngắn hạn, đang trong thời gian thử việc… Pháp nhân phải bồi thường cho người bị thiệt hại liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ mà pháp nhân giao cho thành viên đó thực hiện. Trong trường hợp này, hành vi của họ được hiểu là hành vi của pháp nhân. Chính vì vậy, trách nhiệm trước hết thuộc về pháp nhân. Sau khi pháp nhân bồi thường thiệt hại, nếu thành viên của pháp nhân có lỗi khi gây thiệt hại cho chủ thể khác thì pháp nhân có quyền yêu cầu thành viên này phải hoàn trả “một khoản tiền theo quy định của pháp luật”8. Do đó, việc xác định mức độ lỗi của thành viên khi gây thiệt hại là rất quan trọng và là cơ sở để xác định số tiền hoàn trả của thành viên đối với pháp nhân.
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, trách nhiệm dân sự của pháp nhân trong quan hệ hợp đồng có thể phát sinh do các yếu tố: Vi phạm nghĩa vụ (Điều 351); chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 359); không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều 356); chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (Điều 357); không thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc (Điều 358); trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ (Điều 360).
3. Vấn đề phát sinh trong thực tiễn về trách nhiệm dân sự của pháp nhân
Trong thực tiễn quá trình thực hiện các quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân phát sinh nhiều vấn đề khi có các ý kiến khác nhau về trách nhiệm dân sự của pháp nhân hay của thành viên. Tác giả xin nêu ra vụ việc để lý giải những vướng mắc trong thực tiễn. Từ năm 2011 đến năm 2016, có hàng loạt các vụ việc được khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền, theo đó các nguyên đơn là các doanh nghiệp và bị đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (gọi tắt là Agribank) về quan hệ bảo lãnh thanh toán nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán. Theo đó, các doanh nghiệp khởi kiện yêu cầu Agribank thanh toán số tiền theo bảo lãnh thực hiện hợp đồng mua bán giữa các doanh nghiệp với nhau. Trong chứng thư bảo lãnh, Agribank cam kết: “Trong trường hợp người mua hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán của mình theo quy định tại hợp đồng kinh tế đã ký kết”. Đến khi bên có nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán không thực hiện nghĩa vụ thanh toán, bên có quyền (bên bán của hợp đồng mua bán) đã yêu cầu Agribank thanh toán số tiền theo chứng thư bảo lãnh. Tuy nhiên, Agribank từ chối thanh toán với lý do là Giám đốc chi nhánh của Agribank khi phát hành bảo lãnh đã thực hiện sai quy trình như không lập hồ sơ, không được hạch toán, không thu phí và không đưa tài sản bảo đảm. Đồng thời yêu cầu Cơ quan cảnh sát điều tra - Bộ Công an điều tra, khởi tố vụ án liên quan đến trách nhiệm cá nhân của Giám đốc chi nhánh Agribank. Vụ việc này đặt ra vấn đề là trách nhiệm của pháp nhân Agribank hay trách nhiệm của cá nhân Giám đốc chi nhánh Agribank trong việc thanh toán số tiền bảo lãnh cho doanh nghiệp. Có các quan điểm khác nhau về vấn đề này:
Quan điểm thứ nhất: Trách nhiệm dân sự trong việc thanh toán khoản tiền bảo lãnh là của pháp nhân Agribank. Bởi Ngân hàng này là một pháp nhân độc lập. Chi nhánh Hồng Hà là đơn vị phụ thuộc. Theo quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 92 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của pháp nhân, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của pháp nhân, kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập, thực hiện. Do đó, trách nhiệm thực hiện bảo lãnh là trách nhiệm của pháp nhân Agribank, chứ không phải trách nhiệm cá nhân Giám đốc chi nhánh.
Quan điểm thứ hai: Trách nhiệm dân sự phát sinh là của cá nhân Giám đốc chi nhánh. Bởi, Giám đốc chi nhánh mặc dù được Tổng Giám đốc Agribank (là người đại diện theo pháp luật của Agribank) ủy quyền bằng văn bản trong quá trình hoạt động, nhưng Giám đốc chi nhánh đã sai quy trình như không lập hồ sơ, không được hạch toán, không thu phí và không đưa tài sản bảo đảm, vì thế, việc phát hành bảo lãnh không phát sinh các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân là Ngân hàng, mà thuộc trách nhiệm cá nhân của Giám đốc chi nhánh.
Quan điểm thứ ba: Trách nhiệm dân sự phát sinh phải được cả pháp nhân và cá nhân liên đới chịu trách nhiệm. Bởi, Giám đốc chi nhánh là người của pháp nhân, vì thế nếu cá nhân làm sai, thì pháp nhân và cá nhân phải liên đới chịu trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba. Sau khi thực hiện trách nhiệm dân sự với bên thứ ba, thì căn cứ vào yếu tố lỗi của cá nhân (Giám đốc chi nhánh) để xác định trách nhiệm của cá nhân đối với pháp nhân.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi lẽ, trách nhiệm dân sự ở đây phải thuộc về pháp nhân do Giám đốc chi nhánh trong quá trình hoạt động đã được người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng ủy quyền thường xuyên. Việc ký kết các chứng thư bảo lãnh là nằm trong phạm vi thẩm quyền của Giám đốc chi nhánh được ủy quyền. Vì thế, hoạt động của Giám đốc chi nhánh là nhân danh Ngân hàng để tham gia giao kết hợp đồng và sẽ phát sinh các quyền và  nghĩa vụ cho pháp nhân là Ngân hàng. Việc người của pháp nhân (Giám đốc chi nhánh) đã vi phạm một số quy trình nội bộ của Agribank khi cấp bảo lãnh nên cá nhân Giám đốc chi nhánh phải chịu trách nhiệm trước Agribank về hành vi của mình. “Đối với khách hàng thì họ chỉ biết rằng chứng thư bảo lãnh đã được Ngân hàng phát hành, có chữ ký của người có thẩm quyền và chữ ký này đã được Ngân hàng xác nhận bằng dấu mộc của Ngân hàng”[9].
Như vậy, để làm rõ được bản chất của những vụ việc như trên cần phải xem xét trách nhiệm dân sự phát sinh là của pháp nhân hay của cá nhân. Khi người đại diện cho pháp nhân để tham gia giao dịch với người thứ ba phải xem xét vấn đề có quyền đại diện cho pháp nhân hay không? Nếu có quyền đại diện cho pháp nhân thì thẩm quyền đại diện như thế nào? Được quy định ở đâu? Từ đó, xem xét hậu quả pháp lý để xử lý trách nhiệm của các bên đối với giao dịch đã giao kết với người thứ ba.
Kết luận: Hiện nay, các quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự của pháp nhân tương đối cụ thể, rõ ràng, tạo cơ sở để phân biệt trách nhiệm dân sự của pháp nhân và trách nhiệm dân sự của cá nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật có ý nghĩa quan trọng để giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn phát sinh. Vì vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc liên quan đến trách nhiệm dân sự của pháp nhân cần làm rõ cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm của pháp nhân hoặc của cá nhân. Tuy nhiên, các vấn đề thuộc trách nhiệm dân sự của pháp nhân là một vấn đề phức tạp, có tác động lớn trong đời sống xã hội. Pháp luật cần đưa ra các trường hợp cần áp dụng trách nhiệm liên đới giữa pháp nhân và người đại diện tạo điều kiện thuận lợi và cơ sở pháp lý cho việc áp dụng trong thực tiễn thi hành và để tránh trường hợp pháp nhân thoái thác trách nhiệm do người của mình gây ra. Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu, tìm hiểu nhằm hoàn thiện và bổ sung các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm dân sự của pháp nhân để điều chỉnh một cách đầy đủ, chặt chẽ và hợp lý những quan hệ phát sinh (nếu có) là rất cần thiết, có ý nghĩa về nhiều phương diện.
ThS. Nguyễn Văn Lâm
Viện Kinh tế và Quản lý, Đại học Bách Khoa  Hà Nội
Nguồn: Tạp chí Dân Chủ Và pháp Luật

Tổng đài tư vấn luật doanh nghiệp

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Doanh Nghiệp

Tổng đài tư vấn luật doanh nghiệp

Đồng hành cùng khách hàng vượt qua mọi thử thách kinh doanh

Những vấn đề khách hàng doanh nghiệp cần gọi 0972238006 nhiều nhất trong thời gian vừa qua:

–  Khách hàng doanh nghiệp muốn thay đổi về đăng kí kinh doanh, chuyển loại hình hoạt động, tranh chấp pháp lý giữa cá nhân và tổ chức…thay đổi thông tin về doanh nghiệp, tăng giảm vốn điều lệ…

–  Những thay đổi về nhân sự liên quan đến pháp luật như: người đại diện, chức danh người đại diện đã được bổ nhiệm trước đó, cổ đông công ty, thông tin riêng của mỗi thành viên…

–  Tổng đài cũng tiếp nhận những thông tin về luật doanh nghiệp cần tư vấn cho khách hàng như địa điểm kinh doanh, lập chi nhánh mới hay mở văn phòng đại diện ở tỉnh thành trong và ngoài nước…

Quy trình tư vấn luật doanh nghiệp qua tổng đài

Với nhiều năm kinh nghiệm luật sư của  Sẽ giúp bạn hình dung được cách giải quyết tình hình  một cách đơn giản nhất theo một quy trình căn bản như sau:

–  Lắng nghe hỏi đáp thắc mắc của khách hàng, xác định rõ nội dung cần tư vấn hỗ trợ: chuyển đổi giấy phép kinh doanh, tranh chấp hợp đồng kinh tế, mua bán sáp nhập công ty

–  Đưa ra lời giải thích và giải pháp cho vấn để một cách toàn diện nhất: giấy tờ cần chuẩn bị để gửi đến cơ quan chức năng nào, thủ tục tiến hành phải qua các bước pháp lý ra sao, những điều kiện quan trọng giúp khách hàng có thể làm chủ tình hình nếu có những vấn đề phát sinh ngoài ý muốn về hợp đồng kinh doanh, tranh chấp tài sản.

–  Nếu doanh nghiệp nhờ tổng đài tư vấn luật doanh nghiệp can thiệp về mật hành chính thì sẽ có nhân  viên đến tận nơi thu thập chứng từ đồng thời thay doanh nghiệp giải quết mọi vấn đề còn lại.

Làm thế nào để biết được tổng đài tư vấn luật doanh nghiệp có uy tín hay không

Một tổng đài tư vấn luật doanh nghiệp cho khách hàng tốt nhất chính là địa chỉ tổng đài có nhiều kinh nghiệm đối với các loại hình kinh doanh cụ thể. Bạn luôn có những lời khuyên bổ ích thiết thực từ luật sư và tự mình giải quyết những vấn đề trên một cách nhanh chóng.

Những tư vấn viên tận tâm luôn biết lắng nghe khó khăn của doanh nghiệp và biết cách tháo gỡ chúng một cách hiệu quả nhất, không mất thêm nhiều thời gian hay chi phí của khách hàng.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006