Luật Sư Tranh Tụng

NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ VIỆT NAM BÊN THỀM HỘI NHẬP

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ VIỆT NAM BÊN THỀM HỘI NHẬP
Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác bởi lẽ ngoài những yêu cầu về trình độ và kiến thức chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp luật sư. Đây là một nét đặc thù rất riêng của nghề luật sư và điều đó tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư.  

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy của xu thế toàn cầu hoá, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về luật sư nói riêng đã không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển đội ngũ luật sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật sư; đồng thời tiếp tục thực hiện tốt Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đối với yêu cầu cấp bách đòi hỏi đất nước nhằm có một đội ngũ luật sư tài năng và đạo đức như lời của nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã phát biểu tại Hội nghị tổng kết 4 năm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW và triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW: “…Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà…đội ngũ luật sư cần xác định rõ vai trò, vị trí của mình để phấn đấu vươn lên không chỉ về trình độ nghề nghiệp mà còn cả trong việc giữ gìn đạo đức nghề nghiệp”. Điều đó cho thấy những vấn đề liên quan đến luật sư và tổ chức, hoạt động luật sư, đặc biệt là kỹ năng hành nghề của luật sư luôn được Đảng và nhà nước quan tâm. Theo đó, việc hành nghề của luật sư hôm nay đòi hỏi phải có sự nâng cao và đổi mới về kỹ năng hành nghề để bắt kịp những yêu cầu của tiến trình đổi mới và hội nhập. Một trong các vấn đề xin được đề cập để các luật sư chúng ta cùng suy nghĩ và trao đổi trong hội thảo hôm nay là nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư Việt Nam bên thềm hội nhập.

Có thể nhận thấy rằng trong hệ thống tư pháp của Việt Nam hiện nay đã hình thành hai loại thủ tục tố tụng cơ bản và đặc thù – đó là tố tụng hình sự và tố tụng phi hình sự bao gồm tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Điều này cho thấy khi hành nghề, các luật sư cũng tham gia tranh tụng dưới hai hình thức chủ yếu là tranh tụng trong các VAHS và tranh tụng trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động và hành chính (được gọi chung là tranh tụng trong các vụ án phi hình sự). Đối với việc luật sư tham gia tranh tụng trong các VAHS thì mục đích chủ yếu nhất và thường xuyên nhất là nhằm bào chữa cho hành vi phạm tội của bị cáo trên cơ sở đó để Toà án có sự ghi nhận về quan điểm của luật sư mà đưa ra một bản án có lợi cho bị cáo. Ngoài ra, các luật sư có thể tham gia tranh tụng trong các VAHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác bị xâm hại là cá nhân hay tổ chức. Tuy nhiên sự tham gia của các luật sư trong trường hợp này không đồng nhất với sự tham gia của luật sư trong các vụ án phi hình sự bởi vì cái đích của luật sư hướng tới trong quá trình tranh tụng ở các vụ án phi hình sự là quyền lợi cụ thể đương sự trên cở sở yêu cầu của đương sự cần được giải quyết trong vụ án đó. Mặc dù khác biệt như vậy nhưng các kỹ năng tranh tụng của luật sư trong vụ án hình sự hay phi hình sự đều có các bước tiến hành mang tính chuyên nghiệp và được mô thức hoá cao đối với các công việc trước khi tham gia phiên toà, trong và sau khi tham gia phiên toà các cấp.

Hiện nay, bên cạnh hoạt động trợ giúp pháp lý tham gia các phiên toà hình sự theo sự chỉ định của Toà án trong các trường hợp pháp luật hình sự quy định, nhu cầu của bị can, bị cáo cũng như các đương sự cần đến sự giúp đỡ của luật sư trong các vụ án hình sự, phi hình sự ngày càng nhiều với những yêu cầu đa dạng, không giống nhau. Chúng ta biết rằng kỹ năng của luật sư khi bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng mà có thể đánh giá được sự thành công là những tác động và ảnh hưởng của luật sư xuyên suốt trong tiến trình tố tụng để duy trì quan điểm bào chữa, quan điểm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân luật sư, từ đó làm cho Toà án có quan điểm xét xử công bằng, nghiêm minh, tuyên án có lợi tối đa cho thân chủ của mình. Do vậy, trải qua các giai đoạn từ khi khách hàng tìm đến mình – chuẩn bị tham gia phiên toà – tham gia phiên toà xét xử các cấp và sau phiên toà thì luật sư cần lưu ý những vấn đề liên quan đến kỹ năng tranh tụng như sau:

I – NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TRƯỚC KHI THAM GIA PHIÊN TOÀ

Trước khi tham gia phiên toà, kỹ năng tranh tụng của luật sư thể hiện trong giai đoạn này là một khâu quan trọng, có ý nghĩa rất lớn đối với sự thành công của việc bào chữa hay bảo vệ quyền lơị cho khách hàng. Có rất nhiều công việc phải làm thông qua kỹ năng tác nghiệp, hành nghề của luật sư trong giai đoạn này. Tuy nhiên trong xu hướng tranh tụng hiện nay, chúng tôi chỉ có một vài ý kiến tham gia đối với một số vấn đề cần đổi mới sau đây:

Thứ nhất, hiện nay trình độ nhận thức pháp luật của khách hàng đã có sự thay đổi nâng cao hiểu biết hơn rất nhiều do những thay đổi và các điều kiện tác động của xã hội và cộng đồng. Điều này bắt buộc các luật sư phải chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng của mình. Vẫn biết rằng người hành nghề luật sư cần am hiểu về mọi lĩnh vực pháp luật, nhưng trong xu hướng hội nhập hiện nay các vụ án hình sự và phi hình sự rất đa dạng, xuất hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống cho nên luật sư cần xác định cho mình lĩnh vực tranh tụng chuyên sâu để hành nghề. Bên thềm hội nhập, chúng ta cũng không thể đi khác với xu hướng hành nghề của các luật sư trên thế giới hiên nay. Luật sư của các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law hay Common Law đều hành nghề theo hướng chuyên môn hoá một lĩnh vực cụ thể. Ở các nước đó chúng ta không xa lạ gì khi nghe đến tên gọi “luật sư hình sự”, “luật sư về thừa kế”, “luật sư về hôn nhân & gia đình”, “luật sư về ngân hàng”, “luật sư về chứng khoán”, “luật sư về bảo hiểm”, “luật sư về bất động sản”, thậm chí có “luật sư về bồi thường thiệt hại”, “luật sư chuyên về tai nạn giao thông”….Kỹ năng hành nghề đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư sẽ tác động trực tiếp đến quyền lợi của thân chủ, bởi vậy chỉ khi luật sư nhận vụ việc có kiến thức chuyên sâu, hiểu biết tường tận, cập nhật được toàn bộ các các quy định pháp luật về một lĩnh vực cụ thể để ứng dụng chúng như một thói quen, bên cạnh đó là sự kết hợp kinh nghiệm bản thân thường xuyên tham gia tranh tụng trong các vụ án thuộc lĩnh vực cụ thể đó thì mới có thể cho phép người luật sư ấy được khách hàng đặt trọn niềm tin. Khi nhận vụ việc từ khách hàng, luật sư với kiến thức thức chuyên sâu, kinh nghiệm tranh tụng cũng đã phần nào giúp cho thân chủ nhìn thấy yêu cầu của họ sẽ được các cơ quan tư pháp giải quyết tới đâu trên cơ sở phân tích các quy định hiện hành, chưa kể đến các kỹ năng tác nghiệp với các chủ thể khác liên quan khi hành nghề. Mặt khác, khách hàng của luật sư hôm nay không chỉ dừng lại là những khách hàng mang quốc tịch Việt Nam mà họ còn là khách hàng mang quốc tịch của nhiều quốc gia khác. Do vậy, trong bối cảnh hiện nay, các luật sư cần chủ động, linh hoạt hoàn thiện mọi điều kiện hành nghề cần thiết cho bản thân để mở rộng đối tượng phục vụ cho mình, hướng tới phục vụ cho cả các khách hàng nước là cá nhân, tổ chức nước ngoài.

Ngoài ra, bên cạnh việc chuyên môn hoá lĩnh vực pháp luật cụ thể để nâng cao kỹ năng tranh tụng, luật sư phải căn cứ vào lĩnh vực chuyên sâu hành nghề của mình là gì để đáp ứng yêu cầu cập nhật kiến thức pháp luật mới, đặc biệt là pháp luật quốc tế liên quan cũng như các kiến thức ngoại ngữ, tin học. Điều này sẽ giúp cho luật sư hướng tới cơ hội tham gia tranh tụng tốt tại các phiên toà của các vụ việc có yếu tố nước ngoài hay xét xử tại nước ngoài. Xu hướng hội nhập buộc các luật sư trẻ của chúng ta phải tự hoàn thiện đầy đủ các kiến thức chuyên môn cũng như khả năng ngoại ngữ, tin học để tự tin hành nghề, độc lập tranh tụng tại bất cứ đâu, cho dù nơi xét xử nằm ngoài biên giới Việt Nam. Chúng ta sẽ không thể có các luật sư tranh tụng các vụ kiện kinh doanh – thương mại giỏi trên thương trường quốc tế nếu luật sư của chúng ta không có khả năng ngoại ngữ lưu loát khi tranh tụng, không hiểu biết về quy tắc UNCITRAL, về pháp luật của WTO liên quan tới GATT, GATS, TRIMS, TRIPS…cũng như pháp luật của các nước có chủ thể tham gia tố tụng hữu quan . Ngày nay, hình ảnh nhiều luật sư sử dụng thành thạo các phần mềm ứng dụng của công nghệ thông tin như truy cập Website, gửi nhận thư điện tử, truyền dữ liệu là hình ảnh, âm thanh…..không còn xa lạ với chúng ta khi nhìn thấy họ tác nghiệp và hành nghề. Vì vậy, việc đầu tiên để các luật sư nâng cao kỹ năng tranh tụng của mình trong các vụ án hình sự hay phi hình sự là yêu cầu chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, hoàn thiện kiến thức chuyên môn, khả năng ngoại ngữ và tin học trước khi tiếp nhận vụ việc từ khách hàng và chuẩn bị tham gia phiên toà.

Thứ hai, bên cạnh việc chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, giỏi chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, tin học luật sư cần phải đổi mới kỹ năng tiếp xúc và làm việc với khách hàng khi nhận bào chữa hay bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Để làm được điều này, các VPLS cần giúp cho các luật sư các Form mẫu giấy tờ rõ ràng, mang tính chuyên nghiệp, đơn giản mà không mang nặng tính hành chính để giúp cho việc giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng được nhanh chóng, thuận tiện. Bên cạnh đó, cũng cần công khai Bảng tính mức thù lao, danh sách các luật sư được chuyên môn hoá trong từng lĩnh vực tranh tụng cụ thể, tiến trình tố tụng để giải quyết yêu cầu của khách hàng để khách hàng được biết trước khi ký Hợp đồng. Kỹ năng tiếp xúc khách hàng hiện nay buộc luật sư phải kết hợp và coi khách hàng như một người cộng sự trong quá trình giải quyết vụ việc của họ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc luật sư cần có sự nhận thức mới về quan hệ giữa luật sư với khách hàng. Đã qua đi cái thời mà khách hàng chẳng hiểu biết và cũng không cần biết về vụ việc, miễn là giao “trọn gói” cho luật sư thực hiện yêu cầu giúp đỡ pháp lý của mình. Tham gia tranh tụng hôm nay, luật sư chúng ta cần phải nhận thức là chúng ta đang “hợp tác” với khách hàng chứ không phải khách hàng đang “nhờ vả” chúng ta để chúng ta cho mình cái quyền quyết định mọi thứ không cần hỏi ý kiến khách hàng ngay cả khi họ là những người trình độ văn hoá thấp, thiếu hiểu biết pháp luật. Cho nên, luật sư trong quá trình trao đổi với khách hàng cần thông tin thường xuyên về tình hình công việc luật sư đang thực hiện, đặc biệt cần phải làm cho khách hàng nhận diện bản chất của vụ việc một cách trung thực, rõ ràng. Đối với những thông tin không cần thiết có ý kiến của khách hàng hoặc được xử lý trên cơ sở luật định, cần thông qua trợ lý luật sư hoặc tự mình luật sư có thể gửi thư điện tử, fax thông báo cho họ biết; còn đối với các thông tin mới phát sinh cần có sự trao đổi trực tiếp và luật sư cần biết ý kiến, quan điểm chính thức của khách hàng thì bắt buộc luật sư phải mời khách hàng tới làm việc tại VPLS để thống nhất theo quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Cuộc sống hôm nay trong điều kiện của nền kinh tế thị trường đa thành phần, mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng trở nên rất nhạy cảm bởi một bên yêu cầu dịch vụ pháp lý và một bên thực hiện dịch vụ ấy. Nếu chúng ta không có sử đổi mới nhận thức về quan hệ của chúng ta với khách hàng và không làm tốt tinh thần “hợp tác” của mối quan hệ ấy trên cơ sở luật định thì khó tránh khỏi các vụ khách hàng khiếu nại, khởi kiện luật sư, yêu cầu luật sư bồi thường thiệt hại…mà không cần biết luật sư có lỗi hay không hoặc có hay không thiệt có thực tế!

Thứ ba, một vấn đề nữa cần được đặt ra để nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư hiện nay là đổi mới phương pháp nghiên cứu Hồ sơ vụ án và đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ. Xuất phát từ yêu cầu của thân chủ mà luật sư xác định trọng tâm công việc cho mình để tham gia tranh tụng và đi vào nghiên cứu hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, luật sư cần phải biết rút ngắn thời gian nghiên cứu hồ sơ tại cơ quan Toà án bằng việc vận dụng các phương tiện kỹ thuật như dùng máy ảnh kỹ thuật số, máy scan để tăng khoảng thời gian nghiên cứu sâu hơn tại VPLS hoặc gia đình khi có điều kiện. Khi nghiên cứu hồ sơ, đòi hỏi các luật sư của chúng ta hôm nay phải có sự thay đổi về đánh giá chứng cứ. Trong tố tụng hình sự, các cơ quan và những người tiến hành tố tụng giữa vai trò chính trong việc thu thập chứng cứ, còn trong tố tụng phi hình sự (tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính) thì đương sự lại giữ vai trò chính trong việc thu thập và cung cấp chứng cứ cho cơ quan và người tiến hành tố tụng. Do vậy, bằng kỹ năng của mình luật sư cần phải nhận diện đúng về chứng cứ và nguồn chứng cứ được các bên cung cấp trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, tránh tình trạng tư duy sai lầm về tố tụng “án tại hồ sơ”. Luật sư không đọc hồ sơ để viết Bài bào chữa hay Bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, mà luật sư phải nhận thức đọc hồ sơ để biết mình phải làm gì cho thân chủ, để chủ động đưa ra các kiến nghị với cơ quan tiến hành tố tụng khi cần thiết, để phiên toà xét xử không chỉ mang tính thủ tục và hình thức mà phải diễn ra trên cơ sở tranh luận công khai tại phiên toà mới có thể ra đời một bản án hay quyết định công bằng, đúng pháp luật, bảo vệ tối đa quyền lợi của thân chủ chúng ta.

Thứ tư, một vấn đề tác động đến kỹ năng tranh tụng của luật sư là nhận thức của luật sư về đường hướng giải quyết yêu cầu của thân chủ. Bên cạnh việc tuân thủ đúng quy định pháp luật nội dung và hình thức để giải quyết vụ việc thì luật sư cần có nhận thức của chính mình về đường hướng giải quyết yêu cầu khách hàng đặt ra. Luật sư tham gia tranh tụng hôm nay phải nhận thức và đổi mới tư duy về quyền con người – bởi quyền con người luôn được tôn trọng và ngày một nâng cao cho dù thân chủ chúng ta là bị cáo, người bị hại hay các đương sự. Do vậy, đối với việc tham gia tranh tụng trong VAHS luật sư đừng quá lệ thuộc vào kết luận điều tra, cáo trạng hay quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án mà có tư duy làm sao để bảo vệ thân chủ tối đa – hãy quyết định đường hướng giải quyết vụ việc trong nhận thức của luật sư trên cơ sở luật định mặc dù trước đó đã có những chứng cứ buộc tội, bất lợi cho thân chủ. Còn trong tố tụng phi hình sự, xu hướng hiện đại cho thấy các vụ án đều hướng đến vấn đề hoà giải mà không cần tới việc xét xử của Toà án. Do vậy, đối với tranh tụng phi hình sự, bên cạnh việc quan tâm và bảo vệ lợi ích tối đa cho thân chủ luật sư phải nhận diện đúng yêu cầu của thân chủ, bản chất của vụ việc để có sự đánh giá khách quan và hướng thân chủ đến với hoà giải nếu điều đó cũng là mong muốn của thân chủ, hoặc thân chủ không mong muốn nhưng việc xét xử sau này sẽ bất lưọi cho họ nếu căn cứ theo quy định pháp luật…Chúng tôi cho rằng một xã hội dân sự có nền tư pháp dân chủ, văn minh là xã hội không phải có thật nhiều các bản án được tuyên thấu tình, đạt lý mà phải là xã hội ít tranh chấp, nếu có tranh chấp thì trước tiên phải được giải quyết bằng con đường hoà giải mà các bên vẫn đạt được quyền lợi cho mình chứ không chỉ tưu duy theo lối quyền lợi của mình chỉ có thể đạt được khi có bản án có hiệu lực của cơ quan Toà án. Chúng tôi muốn gợi ý để các luật sư tranh tụng phi hình sự quan tâm và đổi mới nhận thức về vấn đề này. Điều này cũng là xu hướng chung hiện nay được giới luật sư của các nước đang phát triển coi trọng và áp dụng.

II – NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG KHI THAM GIA PHIÊN TOÀ

Kỹ năng tranh tụng của luật sư trong giai đoạn tham gia phiên toà là kết quả của kỹ năng tranh tụng được chuẩn bị chu đáo từ giai đoạn trước. Có thể nói, không có quá nhiều vấn đề về kỹ năng tranh tụng của luật sư cần bàn đến trong giai đoạn này bởi vì chủ yếu luật sư phải giải quyết tốt công việc của mình theo một trình tự tố tụng tại Toà án được pháp luật quy định. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập của đất nước, xu hướng cải cách tư pháp được Đảng và nhà nước quan tâm và quyết tâm thực hiện, chúng tôi xin được trao đổi đôi điều về kỹ năng tranh tụng của luật sư như sau:

Một là, về vấn đề hoãn phiên toà. Chúng tôi cho rằng kỹ năng tranh tụng của luật sư giỏi không nằm ở việc có thể tìm biện pháp để đưa ra nhiều lý do vắng mặt của đương sự, của luật sư….để xin hoãn phiên toà, vì sớm muộn thì phiên toà vẫn được tiến hành theo quy định pháp luật và quyền lợi của thân chủ mình vẫn được thể hiện bằng việc tuyên án của Toà án. Vấn đề hoãn phiên toà sẽ gây tốn kém thời gian, vật chất, công sức cho rất nhiều chủ thể trong đó có luật sư chúng ta. Do vậy, chúng tôi muốn các luật sư trẻ ý thức hơn về vấn đề này để phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng làm sao cho phiên toà sớm được tiến hành, không phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần. Đây là trách nhiệm của luật sư chúng ta và trong bối cảnh đổi mới của đất nước hôm nay, mong rằng vấn đề này sẽ được giới luật sư chúng ta ghi nhận khi thực hiện kỹ năng tranh tụng của mình trong giai đoạn tham gia phiên toà.

Hai là, vấn đề tranh luận tại phiên toà. Như đã đề cập trên đây về vấn đề phải loại bỏ tư duy sai lầm của luật sư về vấn đề “án tại hồ sơ” khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nay xin trở lại với vấn đề đó bởi giữa việc nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong hồ sơ với kỹ năng tranh luận tại phiên toà có mối liên hệ rất mật thiết. Nói như vậy không có nghĩa coi việc nghiên cứu quy định pháp luật, nghiên cứu hồ sơ vụ án là phụ mà chúng tôi chỉ muốn đề cập tới vấn đề làm sao để các luật sư đừng quá lệ thuộc vào hồ sơ vụ án, không chuẩn bị tốt cho mình kỹ năng phần tranh luận công khai tại phiên toà. Xu hướng tranh tụng gần đây và đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO buộc chúng ta phải tuân thủ các cam kết quốc tế và pháp luật quốc tế, chắc chắn vấn đề tranh tụng công khai tại phiên toà sẽ là con đường xác định sự công bằng, lẽ phải để tuyên án. Do vậy, các luật sư trẻ cần phải tích cực tham gia, tham dự các phiên toà nhiều hơn để đúc kết kinh nghiệm cho mình; đồng thời ngoài việc lập sẵn cho mình kế hoạch xét hỏi, cần biết dự đoán các vấn đề cần tranh tụng công khai tại phiên toà trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan điểm bào chữa/bảo vệ của luật sư. Để làm được điều này, các luật sư trẻ cần phải giành thời gian để tự hùng biện quan điểm bào chữa hay bảo vệ của mình đối với yêu cầu của thân chủ. Kỹ năng nói, tốc độ nói, giọng nói, phong thái, tư thế đi lại tại phiên toà là những vấn đề bắt buộc luật sư phải quan tâm và xử lý tốt mới giúp luật sư tự tin. Xu hướng hiên nay, các luật sư phải đặc biệt quan tâm nhiều hơn kỹ năng của mình đối với phần tranh luận công khai tại phiên toà. Do vậy bài bào chữa hay bản luận cứ nên để dưới dạng “mở” có thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với diễn biến phiên toà chứ không nên theo cách chuẩn bị cổ điển “đóng” bằng cách viết sẵn để đọc và trình bày trước Hội đồng xét xử. Luật sư của các nước theo pháp luật Common Law mặc dù chịu sự điều chỉnh rất lớn của các “án lệ” trước đó, nhưng không vì thế mà họ không thể hiện tốt kỹ năng tranh luận để bảo vệ tối đa cho thân chủ mình, trái lại tại các phần tranh luận luật sư luôn là người chủ động, điều khiển phần tranh luận theo đúng mục tiêu cần đạt tới của mình. Điều này có ý nghĩa quyết định đối với việc thuyết phục Hội đồng xét xử tuyên một bản án có lợi cho thân chủ mình hơn là việc ngồi để hoàn chỉnh Bài bào chữa/Bài bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.

Ba là, về Bài bào chữa hay Bài luận cứ bảo vệ quyền lợi cho thân chủ. Chúng tôi cho rằng xã hội hôm nay là xã hội pháp quyền, do vậy pháp luật vẫn là mục tiêu tối thượng buộc các chủ thể tố tụng phải hướng tới và tuân thủ. Xu hướng trình bày luận cứ bào chữa hay bảo vệ quyền lợi cho thân chủ hiện nay nên được luật sư trình bày đơn giản, ngắn gọn, mạch lạc dựa trên các căn cứ pháp luật, chứng cứ của hồ sơ vụ án, các tình tiết mới cũng như kết quả tranh luận tại phiên toà. Do vậy luật sư không nên đề cập qua nhiều tới phạm trù đạo đức, tình cảm con người để lấy đó làm lý lẽ gỡ tội hay bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình. Luật sư vẫn quan tâm tới việc chia xẻ với khách hàng nhưng không thể coi đó là cơ sở lập luận gỡ tội hay bảo vệ khách hàng. Để làm được điều này đòi hỏi các luật sư phải ý thức được vấn đề quyết định để gỡ tội hay bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình là các cơ sở pháp lý chứ không tranh tụng theo hướng “tình cảm” con người.

Cuối cùng, về văn phong diễn đạt của luật sư trình bày tại phiên toà. Đây cũng là một vấn đề tuy nhỏ những khá ảnh hưởng tới uy tín tranh tụng của luật sư. Nhà văn Ciceron khi biên tập cuốn sách “những bài viết hay nhất” được Nhà xuất bản xã hội tại Paris, Pháp xuất bản năm 1925 có đưa ra các yêu cầu về văn phong là 05 tiêu chuẩn: trong sáng, ngắn gọn, phù hợp, rõ ràng và dễ chấp nhận. Thiết nghĩ văn phong pháp lý của luật sư chúng ta trước tiên phải đảm bảo các yêu cầu chung đó bên cạnh các yêu cầu đặc thù của nghề luật như không dùng câu từ trìu tượng, không dùng ngôn ngữ đời thường hay dung văn phong cảm thán, khoa trương. Chúng tôi có điều kiện tham gia tranh tụng tại khá nhiều phiên toà hình sự và không ít lần được nghe một số luật sư trẻ trình bày luận cứ gỡ tội với cách gọi hơi thái quá, chẳng hạn “Vị đại diện VKS kính mến” hay “Hội đồng xét xử công minh”, “Bà hội thẩm tài ba” hay có những luật sư đưa ra nhận định rằng “lập luận của vị đại diện VKS là vô cùng trong sáng, vô tư…”!(?) …Thú thực lời lẽ của luật sư đó khi trình bày cho người nghe cảm giác thấy khó nghe và phản cảm bởi khi ở phiên toà, chúng ta hành nghề luật và hãy biết nói với nhau bằng luật và chỉ có vậy mới khẳng định được kỹ năng tranh tụng của luật sư. Để nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư tại phiên toà, thiết nghĩ cũng cần lưu tâm nhiều hơn nữa đến vấn đề mà chúng tôi đề cập trên đây.

III – NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG SAU PHIÊN TOÀ

Phần cuối, chúng tôi muốn đề cập tới kỹ năng của luật sư sau phiên toà – đây cũng là một nội dung rất có ý nghĩa và làm nổi bật vai trò cũng như kỹ năng tranh tụng của luật sư.

Trước hết, nói về Biên bản phiên toà. Hiện nay trong công cuộc cải cách tư pháp, các cơ quan và những người tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng để giải quyết các vụ việc một cách cẩn trọng, công minh và phù hợp. Theo đó, các công việc và thủ tục hành chính của họ có hướng mở hơn, không cứng nhắc, lệ thuộc như trước. Biên bản phiên toà là một trong những văn bản cho phép những người tham gia tố tụng khẳng định quyền của mình. Luật sư Việt Nam chúng ta ít có thói quen xem và bổ sung, kiến nghị sửa đổi Biên bản phiên toà, trong khi đối với luật sư các nước khác đây là văn bản quan trọng nhất khẳng định các quyền còn lại của thân chủ họ sau khi tuyên án. Bởi vậy, theo xu hướng hội nhập hôm nay, chúng tôi muốn trao đổi vấn đề nay để các luật sư chúng ta, đặc biệt là các luật sư trẻ mới hành nghề cần phát huy tối đa quyền của những người tham gia tố tụng để xin phép Toà án xem Biên bản phiên toà sau khi tuyên án. Hãy làm cho nó trở thành thói quen để buộc những người tiến hành tố tụng phải tuân thủ và bảo đảm việc ghi Biên bản phiên toà một cách trung thực, đầy đủ tránh ảnh hưởng tới lợi ích của thân chủ chúng ta.

Sau cùng, xin được bàn về quan hệ của luật sư với thân chủ sau phiên toà, các luật sư trẻ cần chú ý kỹ năng tiếp xúc khách hàng không chỉ giới hạn trong khuôn khổ công việc luật sư thực hiện trên cơ sở Hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký mà luật sư còn phải lưu tâm tới yếu tố tình cảm con người, lòng yêu thương đồng loại. Luật sư có kỹ năng tranh tụng giỏi hôm nay không chỉ là luật sư giỏi luật, bào chữa/bảo vệ hay, thuyết phục được Toà án ra bản án công bằng đảm bảo quyền lợi cho thân chủ mình mà luật sư còn phải biết chia xẻ với khách hàng sau xét xử. Về mặt pháp lý, Hợp đồng dịch vụ pháp lý được thanh lý đồng nghĩa với việc luật sư hoàn thành trách nhiệm của mình với thân chủ nhưng về mặt tình cảm, hợp đồng ấy còn đọng lại nơi khách hàng những ấn tượng về luật sư. Do vậy, nếu luật sư có thể hướng dẫn cho họ biết cách làm đơn kháng cáo, hướng dẫn cách thăm nuôi cho gia đình họ, tôn trọng và bảo đảm việc giữ bí mật cho khách hàng, giới thiệu những đồng nghiệp là các luật sư giởi chuyên sâu trong các vấn đề mới phát sinh mà luật sư nhận thấy mình không đáp ứng tốt được yêu cầu mới của thân chủ…thì chắc chắn quan hệ giữa luật sư chúng ta và khách hàng sẽ bền lâu và họ luôn coi chúng ta là người đầu tiên họ tìm đến khi cần giúp đỡ về các vấn đề pháp lý. Do vậy, trước những thay đổi của xã hội chúng ta bên thềm hội nhập, việc nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư không chỉ ở góc độ chuyên môn, kỹ năng hành nghề mà còn phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của luật sư với thân chủ ngay cả khi đã hoàn thành công việc luật sư đằng sau phiên toà. Điều này chỉ có thể đạt được trên cơ sở tôn trọng truyền thống đạo đức con người Việt Nam, có tình thương đồng loại và ý thức cộng đồng của luật sư. Nói điều này có thể ai đó sẽ nghĩ là sáo rỗng, nhưng thực tế cuộc sống đặt ra cho chúng ta phải nhận thức để hành động như vậy, bởi lẽ không luật sư nào mong muốn khách hàng quay lưng lại với luật sư và không có luật sư nào đang tâm quay lưng lại với khách hàng, cho dù họ là ai.

SOURCE: ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 

piac

LS TRẦN MINH HÙNG

BÀN VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

BÀN VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

 
Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được tranh luận khá sôi nổi trong quá trình nghiên cứu và lập pháp nhằm cải cách thủ tục tố tụng tư pháp hình sự là vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng...
BÀN VỀ TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi
Viện khoa học kiểm sát, VKSNDTC
Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được tranh luận khá sôi nổi trong quá trình nghiên cứu và lập pháp nhằm cải cách thủ tục tố tụng tư pháp hình sự là vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đề ra chủ trương “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”. Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” nhấn mạnh việc “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Trong nội dung cải cách tư pháp, tranh tụng đang là một trong những vấn đề thường xuyên được đề cập đến và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành thì vấn đề tranh tụng đã thực sự trở thành vấn đề thời sự, không chỉ được tranh luận tại các hội nghị khoa học và các hội nghị về tư pháp mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động nghiên cứu sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự cũng như trong hoạt động thực tiễn.
Vậy thế nào là tranh tụng và vấn đề tranh tụng được đề cập trong Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị cần được hiểu như thế nào cho đúng. Có ý kiến cho rằng, cần xác định tranh tụng như một nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam, có ý kiến đề nghị chuyển mô hình tố tụng hình sự ở nước ta sang mô hình tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến lại cho rằng, yêu cầu tăng cường tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49 -NQ/TW của Bộ Chính trị không nên hiểu là yêu cầu thay đổi hệ thống tố tụng (từ hệ thống tố tụng thẩm vấn sang hệ thống hệ thống tố tụng tranh tụng), mà cần phải đựơc hiểu là yêu cầu cần phải tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm cho việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Vấn đề tranh tụng không phải là vấn đề mới, nhưng cho đến nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau. Người ta thường đề cập đến nguyên tắc tranh tụng, kiểu tố tụng tranh tụng, mô hình tranh tụng, hệ thống tranh tụng... lý giải vấn đề tranh tụng từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra một khái niệm cụ thể tranh tụng là gì. Trong một số tài liệu, thường người ta thường đề cập đến hệ thống tranh tụng (Adversarial System). Theo từ gốc tranh tụng trong tiếng Anh là “Adversarial” có nghĩa là đối kháng, đương đầu. Như vậy về bản chất tranh tụng là “cuộc đấu” giữa hai bên trong đó tố tụng hình sự (bên buộc tội và bên bị buộc tội) mà giai đoạn đương đầu tại tòa án (tại phiên tòa) là trung tâm, là chính. Tuy nhiên, không nên hiểu một cách giản đơn tranh tụng là tranh luận, tranh cãi giữa hai bên tại phiên tòa, mà hiểu tranh tụng diễn ra trong một quá trình tố tụng lâu dài, được cả hai bên tiến hành một cách quyết liệt để “cạnh tranh” nhau để “chống” lại nhau. Theo đúng nghĩa, tranh tụng là việc bên buộc tội (công tố) cố gắng để thuyết phục các thành viên Hội đồng xét xử tin rằng bị cáo là người có tội, còn bên bị buộc tội ngược lại, cố gắng và phải sử dụng mọi biện pháp, lý lẽ, căn cứ để biện bạch, bác bỏ những lời buộc tội do bên công tố đưa ra. Và điều đáng lưu ý là trong hệ thống tố tụng tranh tụng gốc, Luật sư của bị cáo có thể bất chấp thủ đoạn để bảo vệ thân chủ bằng mọi giá. Phiên tòa tranh tụng thật sự là một “chiến trường” theo đúng nghĩa của nó khi mà kết cục phiên tòa, chỉ có một bên giành được phần thắng.
Có thể hiểu hệ thống tranh tụng là một hệ thống pháp luật tố tụng, trong đó tòa án không tham gia tích cực vào việc tìm kiếm sự thật của vụ án mà chỉ giữ vai trò trung gian, trọng tài cho “cuộc đấu” giữa bên buộc tội (Cơ quan điều tra và cơ quan công tố) và bên bị buộc tội (Luật sư bào chữa và thân chủ của họ) trên con đường tìm công lý. Tranh tụng được hiểu là các hoạt động được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu nhập và đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình và phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài.
Tố tụng tranh tụng thường được sử dụng rộng rãi ở các quốc gia theo truyền thống án lệ như Anh, Mỹ, Úc và một số quốc gia khác chịu ảnh hưởng của truyền thống pháp luật Anh - Mỹ.
Mặc dù được sử dụng ở nhiều quốc gia, nhưng không phải ở quốc gia nào tố tụng tranh tụng cũng giống nhau. Tuy có sự khác biệt trong tố tụng tranh tụng giữa các quốc gia, nhưng trình tự tố tụng tranh tụng theo ý kiến chung của đa số các nhà nghiên cứu, có thể được khái quát như sau:
Khi phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự, nếu là phạm vi nhỏ, tội ít nghiêm trọng (thông thường là những tội có mức hình phạt cao nhất dưới 5 năm tù) thì cảnh sát có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra tòa (chỉ xét xử với một Thẩm phán).
Nếu là tội nghiêm trọng mà bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ quan công tố để truy tố ra tòa án xét xử theo thủ tục rút gọn, không có Bồi thẩm đoàn tham dự. Trường hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị được xét xử bằng thủ tục có Bồi thẩm đoàn thì vụ án sẽ được cơ quan công tố truy tố ra tòa xét xử với một Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn. Trong quá trình xét xử, các bên buộc tội và bị buộc tội tự xét hỏi, đưa ra chứng cứ, người làm chứng đối chất nhau để bảo vệ quan điểm của mình.
Thẩm phán có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động tố tụng hướng dẫn cho Bồi thẩm đoàn những quy tắc tố tụng, chứng cứ và luật nội dung. Việc quyết định bị cáo có tội hay không hoàn toàn thuộc quyền hạn của Bồi thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên là có tội thì lúc đó chỉ có Thẩm phán tiếp tục vụ án với vai trò là người quyết định hình phạt và lượng hình. Nếu bị cáo được tuyên là vô tội, vụ án sẽ được chấm dứt ngay và cơ quan công tố không được quyền kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc không cho phép xét xử hai lần đối với một bị cáo về cùng một tội. Việc phúc thẩm chỉ đặt ra đối với cả hai bên khi bị cáo bị tuyên là có tội liên quan đến việc định tội hay lượng hình.
Qua tìm hiểu hệ thống tố tụng hay tranh tụng, có thể hiểu khái niệm về chế định tranh tụng trong tố tụng hình sự như sau: “Chế định tranh tụng trong tố tụng hỡnh sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật ghi nhận các nguyên tắc tranh tụng, trình tự thủ tục thực hiện tranh tụng tại phiên tòa, xác định trách nhiệm của các chủ thể tranh tụng và các chế tài xử lý vi phạm thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự, chi phối và định hướng mọi hoạt động và hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo cho quá trình xét xử công bằng, minh bạch và công khai, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được pháp luật công nhận và bảo vệ đồng thời xác định trách nhiệm của các bên tham gia tố tụng phải triệt để tuân thủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình tham gia tố tụng”.
Tranh tụng - xét dưới góc độ mụ hỡnh tố tụng hình sự
Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng được áp dụng phổ biến ở những quốc gia có truyền thống thông luật. Mô hình tố tụng này ra đời đầu tiên ở Anh, sau đó được phổ biến ở các nước vốn là thuộc địa của Anh. Mô hình này thừa nhận hoạt động tố tụng hình sự là quá  trình giải quyết tranh chấp pháp lý giữa một bên là đại diện nhà nước và một bên là công dân bị cáo buộc là đó thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trước một Tòa án - đóng vai trò là trọng tài vô tư, khách quan; Đoàn bồi thẩm - đại diện cho dân chúng cũng tham gia vào việc xét xử. Trong “cuộc đấu” pháp lý này, hai bên tranh chấp đều có những khả năng pháp lý như nhau để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Tranh tụng giữa hai bên bắt đầu ngay từ giai đoạn trước xét xử. Tòa án đánh giá chứng cứ theo nguyên tắc tự do, theo niềm tin nội tâm của mình.
Mô hình tố tụng tranh tụng có những đặc trưng chủ yếu như sau:
Thứ nhất, việc điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu
Tố tụng tranh tụng là hệ thống tố tụng mà Tòa án là cơ quan xét xử và tiến hành tố tụng chính, hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tập chung nhất của hệ thống tố tụng. Các hoạt động khác như hoạt động điều tra của cảnh sát, hoạt động truy tố của Công tố viên chỉ là những hoạt động mang tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng với ý nghĩa đầy đủ nhất theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Chỉ có Tòa án mới là chủ thể tiến hành tố tụng với ý nghĩa đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Vì vậy, hoạt động điều tra của luật sư và của cảnh sát có thể được tiến hành theo nhiều các khác nhau, với những phương pháp thu nhập chứng cứ khác nhau, nhưng đều phải được kiểm chứng tại phiên tòa và thông qua sự xem xét đánh giá của Hội đồng xét xử thì mới được công nhận về mặt pháp lý và được phục vụ cho vụ án, khi đó chứng cứ do các bên cung cấp mới có ý nghĩa đối với phán quyết của Toà án. Chính vì việc điều tra tại phiên tòa là chủ yếu, thông qua việc xem xét đánh giá chứng cứ do các bên đưa ra nên phiên tòa theo thủ tục tố tụng tranh tụng thường rất dài và triệu tập nhiều nhân chứng
Thứ hai, trong tố tụng tranh tụng hình thành hai bên với những lợi ích đối kháng rõ rệt, đó là bên buộc tội và bên bị buộc tội. Trong tố tụng tranh tụng, Cơ quan công tố và Luật sư hoàn toàn bình đẳng nhau họ được pháp luật trao những quyền tương ứng với chức năng để có thể điều tra độc lập và thu thập chứng cứ phục vụ cho công việc của mình. Cơ quan công tố dưới danh nghĩa là người đại diện cho quyền lợi của nhà nước đưa ra các quan điểm, các lập luận, các chứng cứ để buộc tội bị cáo. Còn bên bị buộc tội là bị cáo và những Luật sư của họ cũng dùng mọi lý lẽ, dùng mọi phương tiện được luật pháp cho phép để phản bác lại. Hai bên sẽ trực tiếp, liên tục chất vấn và trả lời chất vấn nhau công khai tại phiên tòa để làm rõ những vấn đề. Khác với tố tụng xét hỏi, tố tụng tranh tụng đặc biệt coi trọng nguyên tắc bằng miệng, công khai, tất cả các tình tiết, các chứng cứ mà Tòa án áp dụng để ra bản án đều phải được các bên tranh tụng tại phiên tòa. Với khoa học phát triển như hiện nay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải đựơc ghi âm hoặc ghi hình, việc xét xử công khai trực tiếp có thể tiến hành qua điện thoại, hội nghị và các cầu truyền hình trực tiếp. Tòa án tiến hành xét xử một vụ án ở một nơi có thể nghe lời khai trực tiếp của một người làm chứng nơi khác.
Thứ ba, Thẩm phán giữ vai trò là “Trọng tài” vô tư, khách quan
Do thủ tục tranh tụng không phân chia thành giai đoạn điều tra nên các chứng cứ đều do các bên trực tiếp đưa ra trong quá trình tranh tụng giữa Công tố viên và bị cáo, Luật sư. Thẩm phán ở các nước theo thủ tục này không có trách nhiệm làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Đây cũng là điểm khác so với tố tụng xét hỏi, theo đó trước khi mở phiên tòa các chứng cứ đã được điều tra, thu thập đầy đủ và thể hiện trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, Thẩm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ này. Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng xét hỏi không phải là một bên trung lập mà là người có vai trò chính trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán có thể trực tiếp chất vấn nếu như lời khai của bị cáo còn có nhiều mâu thuẫn hay bị cáo chối tội.
Trong tố tụng xét hỏi, mọi hành vi của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đều chịu sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa, các bên muốn đặt câu hỏi cho bên kia hoặc những người tham gia tố tụng khác đều phải thông qua chủ tọa phiên tòa. Trong khi đó tại phiên tòa theo tố tụng tranh tụng mỗi bên có quyền đặt câu hỏi trực tiếp cho bên kia cũng như cho những người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều trường hợp họ có quyền ngắt lời bên kia, phản đối lại các ý kiến mà bên kia vừa đưa ra.
Hệ tranh tụng chú trọng vào hoạt động đối tụng giữa các bên trong giai đoạn xét xử với các quy tắc nghiêm ngặt về chứng cứ để đảm bảo rằng bị cáo được xét xử một cách công bằng. Nếu như ở hệ tố tụng tranh tụng, vai trò của Tòa án là thụ động, quá trình thẩm vấn của Thẩm phán ngay tại phiên tòa cũng chỉ mang tính chất gián tiếp thì tố tụng xét hỏi luôn đề cao vai trò chủ động của Thẩm phán trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Trong hệ tố tụng tranh tụng không có sự tố tụng xét hỏi nên chứng cứ trong tố tụng tranh tụng phải tuân theo quy tắc chứng cứ, ngay cả Thẩm phán cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất.
Viện công tố ở những nước theo thủ tục tố tụng tranh tụng có quyền hạn không lớn bằng những nước theo thủ tục tố tụng xét hỏi. Nên quá trình giải quyết vụ án nghĩa vụ của các bên đặt ra ngang nhau. Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng là một cuộc đấu giữa hai bên buộc tội và bên gỡ tội. Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn chỉ là trọng tài, nhưng phiên tòa trong tố tụng xét hỏi nhiều khi rơi vào tình trạng diễn lại những gì đã thực hiện trước đó, trên cơ sở đó hội đồng xét xử khẳng định lại các tình tiết, các chứng cứ để ra bản án. Các nước theo thủ tục tranh tụng gọi phiên tòa của tố tụng xét hỏi là các phiên họp. Vai trò của Luật sư và những người tham gia tố tụng khác đều bị chi phối thông qua vai trò Thẩm phán. Thẩm phán trực tiếp xét hỏi và phát triển sự kiện theo cách của mình còn các bên chủ yếu chỉ tranh luận để giải thích những gì liên quan đến chứng cứ vụ án.
Thứ tư, tố tụng tranh tụng có ba hệ quy tắc chi phối toàn bộ các hoạt động tố tụng, đó là: quy tắc tố tụng, quy tắc chứng cứ và quy tắc về ứng xử của Luật sư. Trong ba hệ quy tắc này, quy tắc về chứng cứ có ảnh hưởng lớn nhất vì nó kiểm soát loại chứng cứ nào có thể được đưa ra trước những người có thẩm quyền quyết định, hay nói cách khác, nó quyết định chứng cứ có được chấp thuận hay không. Ngay cả Thẩm phán cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ thấy thích hợp nhất mà phải tuân theo các quy tắc chứng cứ đã được quy định. Quy tắc chứng cứ được đặt ra nhằm đảm bảo sự công bằng trong tranh tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn chứng cứ không đáng tin cậy, sai lệnh hoặc có thể dẫn đến định kiến cho những người có thẩm quyền phán quyết. Nếu coi tố tụng tranh tụng là một cuộc đấu tranh giữa hai bên có tranh chấp, thì nó đòi hỏi các bên tham gia tố tụng, nhất là cơ quan cảnh sát và công tố phải triệt để tuân thủ các quy tắc đã được luật quy định và trao thẩm quyền cho tòa án là cơ quan phải đảm bảo yêu cầu đó trong quá trình xét xử.
Tố tụng tranh tụng được thể hiện trực tiếp bằng lời nói, nên nhiều tài liệu trong tố tụng xét hỏi được xem là những chứng cứ quan trọng của vụ án thì trong tố tụng tranh tụng lại không được công nhận là chứng cứ. Tuy nhiên, để làm rõ các tài liệu liên quan đến vụ án, chủ nhân của nó sẽ được mời tham gia tố tụng và trực tiếp trình bày trước tòa.
Thứ năm, ở tố tụng tranh tụng thường có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn
Do vai trò của Thẩm phán trong tố tụng tranh tụng là người “trọng tài” nên thông thường phải có Bồi thẩm đoàn tham gia tố tụng. Bồi đoàn thẩm không tham gia vào quá trình tranh tụng nhưng họ có quyền biểu quyết bị cáo có tội hay không có tội, trên cơ sở đó, Thẩm phán sẽ quyết định về vụ án (đây là điểm khác biệt so với tố tụng thẩm vấn, trong tố tụng thẩm vấn Hội thẩm vấn nhân dân tham gia phiên tòa và quyết định cả về việc bị cáo có tội hay không có tội, quyết định cả về lượng hình đối với bị cáo, ở thủ tục tố tụng thẩm vấn Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có địa vị pháp lý ngang với hội thẩm nhân dân).
Thứ sáu, trong tố tụng tranh tụng, tồn tại yếu tố thú tội và thỏa thuận thú tội
Trong nhiều vụ án, cơ quan cảnh sát và công tố không thể tìm ra đủ chứng cứ để có thể “thắng” tại phiên tòa khi họ muốn truy tố một bị cáo, nên pháp luật có những quy định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ quan công tố thoả thuận để bị cáo nhận tội khai báo hay cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được giảm hình phạt sau này khi tòa án tuyên lượng hình (ví dụ: nếu bị cáo nhận tội trong giai đoạn đầu, mức giảm là một phần ba mức hình phạt thông thường). Việc thỏa thuận thú tội được diễn ra giữa Cơ quan cảnh sát, Viện công tố và bị cáo cùng Luật sư của họ. Thông thường Cảnh sát và Cơ quan công tố thông báo cho bị cáo biết đã có những bằng chứng gì về hành vi phạm tội của họ, trên cơ sở đó bị cáo sẽ tham gia ý kiến Luật sư và cân nhắc có nhận tội hay tiếp tục không khai báo hoặc chỉ khai báo trong phạm vi nhất định để sau này tòa sẽ báo lại việc buộc tội.
Tòa án không tham gia vào thủ tục này vì tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ án và bị cáo do cơ quan cảnh sát hay cơ quan công tố đưa ra truy tố. Cơ chế này tác động đến trình tự tố tụng vì khi bị cáo nhận tội dù ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào toàn bộ thủ tục đối với bị cáo sẽ được thay đổi theo hướng không còn “tranh tụng” nữa và lúc đó chỉ còn trách nhiệm của Thẩm phán phải thẩm tra lại hồ sơ vụ án và đưa ra hình phạt thích hợp. Tòa án không có trách nhiệm đối với việc cơ quan công tố bỏ lọt người hay bỏ lọt tội, không truy tố một tội phạm mà chỉ xét xử những tội phạm do cơ quan công tốt truy tố ra Toà. Tất nhiên, với vai trò không những là cơ quan áp dụng pháp luật và thực thi pháp luật mà còn là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân chống lại những lạm dụng quyền lực bất công, đảm bảo niềm tin công chúng vào công bằng và bình đẳng tòa án sẽ có trách nhiệm đối với việc đưa ra các bản án một cách đúng đắn chứ không chỉ đơn thuần dựa vào tài liệu trong hồ sơ hay các vụ án không xét xử bằng bồi thẩm đoàn. Nhưng rõ ràng là ở những trường hợp đó, trách nhiệm của Tòa án trong thủ tục tố tụng tranh tụng không nặng nề bằng Tòa án các nước theo thủ tục tố tụng xét hỏi với tư cách là khâu phán quyết thẩm tra cuối cùng của giai đoạn điều tra tố tụng, Tòa án ở những nước này có quyền khởi tố ngay tại phiên tòa, có quyền xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (ví dụ, ở Việt Nam).
Thứ bảy,  tố tụng tranh tụng đòi hỏi áp dụng phương pháp điều chỉnh pháp luật là phương pháp trọng tài dựa trên tự do và độc lập ý chí của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng. Phương pháp điều chỉnh này dựa trên yếu tố tự định đoạt và mệnh lệnh: thừa nhận quyền tự định đoạt của các bên và quyết định có tính bắt buộc thi hành của Tòa án. Bản thân các bên không thể tự mình tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến bên tranh tụng kia. Tòa án chỉ giải quyết vụ án trên cơ sở yêu cầu của các bên chứ không tự ý giải quyết những gỡ ngoài yờu cầu của cỏc bờn. Tũa ỏn không thể thực hiện bất kỳ hành vi nào thuộc chức năng buộc tội hay chức năng bào chữa. Tòa án tiến hành hoạt động của mihnh trên cơ sở có sự buộc tội của bên buộc tội đưa ra và chỉ giới hạn hoạt động trong phạm vi buộc tội. Điều này dẫn đến hệ quả: sự tranh tụng của các bên xung quanh sự buộc tội chính là động lực làm cho hoạt động tố tụng hình sự tiến triển, vận động lên phía trước. Không có buộc tội - không có tố tụng. Đây là một trong những quy tắc quan trọng của tranh tụng trên cơ sở thừa nhận vai trò độc lập của Tòa án.
Tranh tụng - xét dưới góc độ là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Theo quan niệm chung, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động nhất định “ là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự”; hoặc đó là “những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận.
Nguyên tắc tranh tụng thể hiện tính dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, bình đẳng trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong phiên tòa xét xử vụ án hình sự.
Tranh tụng tạo điều kiện tối đa cho các bên tham gia tố tụng sử dụng các phương pháp để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nguyên tắc tranh tụng để cao vai trò của Luật sư, của cá nhân và đề cao các quyền cơ bản của con người. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài khách quan và công minh, ra phán quyết trên cơ sở chứng cứ mà các bên chứng minh tại phiên tòa. Nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi việc chứng minh phải được thực hiện công khai ngay tại phiên tòa, dưới sự giám sát của Bồi thẩm đoàn và Thẩm phán luôn phải chịu trách sức ép từ bên đối tụng. Vì vậy, mục đích của các bên trong tranh tụng là phải tự chứng minh được lý lẽ phải thuộc về mình, nếu không họ sẽ là người thua cuộc.
Như đã nêu ở trên, vai trò của tranh tụng được thể hiện thông qua ba quy tắc cơ bản định hình cho mọi thủ tục thực hiện tranh tụng. Đó là quy tắc về thủ tục, quy tắc về chứng cứ và quy tắc điều chỉnh về đạo đức ứng xử của Luật sư.
Quy tắc về thủ tục bao gồm một loạt các quy định giúp các bên chuẩn bị chứng cứ trước khi bước vào xét xử chính thức là một thủ tục tư pháp hành chính để tòa án xem xét các chứng cứ đã đủ cho việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm chính thức hay chưa. Quy tắc này cũng nhằm mục đích tránh những thủ tục điều tra có thể diễn ra không cần thiết tại phiên tòa.
Quy tắc về chứng cứ nhằm ngăn chặn việc sử dụng những chứng cứ không đáng tin cậy có thể làm cho tòa án đưa ra phán quyết trên cơ sở những thông tin sai lệnh. Đồng thời quy tắc về chứng cứ cũng nghiêm cấm sử dụng chứng cứ có thể gây ra những định kiến không công bằng cho một trong các bên tham gia tố tụng.
Với những quy định trong quy tắc về chứng cứ, nguyên tắc tranh tụng đảm bảo sự trung lập và thụ động của tòa án trong quá trình xét xử. Hơn nữa, quy tắc về chứng cứ cũng tạo điều kiện để Luật sư của các bên và Công tố viên, buộc họ phải biết được những chứng cứ nào có thể được chấp nhận tại phiên tòa trong khi xét xử. Nó cũng là cơ sở để xác định thẩm quyền của Thẩm phán chủ tọa phải điều hành phiên tòa theo các diễn biến của nó theo đúng thủ tục. Khác với hệ thống tố tụng thẩm vấn, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không có quyền chọn chứng cứ mà họ cho là thích hợp nhất mà phải tuân thủ các quy tắc về chứng cứ đã được xác định trước.
Do tính chất cạnh tranh, đối đầu trong tranh tụng tố tụng đã dẫn tới tình trạng buộc các bên phải đặt mục tiêu phải thắng trong cuộc đối đầu tại phiên tòa kể cả bằng bất cứ giá nào, nên nguyên tắc tranh tụng còn đặt ra một loạt các quy tắc về đạo đức nghề nghiệp để kiểm soát đội ngũ Luật sư của các bên. Quy tắc về đạo đức hành nghề Luật sư còn đòi hỏi Luật sư phải trung thành với quyền lợi của thân chủ như chính quyền lợi của mình. Những thủ đoạn hay hành vi che dấu, làm sai lệch thông tin có thể làm cho tòa án định kiến đều bị pháp luật ngăn cấm và loại trừ.
Với vai trò tranh tụng thông qua ba quy tắc trên có thể thấy rằng, trong giai đoạn xét xử, nguyên tắc tranh tụng đảm bảo việc không trao cho ai quyền độc tôn trong xét xử, không một bên tham gia nào có thể chiếm ưu thế hơn bên kia, kể cả Thẩm phán chủ tọa. Quyền lực được phân chia giữa Thẩm phán, Công tố viên và Luật sư bào chữa, trong đó Công tố viên là người đại diện cho nhà nước buộc tội người bị tình nghi trước tòa. Luật sư bào chữa là người biện hộ cho người bị tình nghi phạm tội trước lời buộc tội của công tố viên. Luật sư có quyền phản bác lại chứng cứ buộc tội do công tố viên đưa ra. Đây chính là yếu tố rất quan trọng bảo đảm cho người bị tình nghi có đủ điều kiện pháp lý bảo vệ mình trong quá trình xét xử. Ngược lại, các chứng do bên gỡ tội đưa ra cũng có thể bị bên công tố phản bác lại trên cơ sở lập luận của mình, đó chính là thủ tục kiểm tra chéo chứng cứ đã nêu trên.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng vấn đề để kiểm tra chéo chứng cứ và cân bằng vị trí (giữa bên Công tố viên và Luật sư bào chữa không ai có lợi thế hơn ai về thẩm quyền trong quá trình xét xử) là một đặc điểm cơ bản, làm nổi bật vai trò của tranh tụng so với hệ thống tố tụng thẩm vấn, nơi mà hầu hết quyền lực đều tập trung vào thẩm phám trong giai đoạn xét xửVai trò của tranh tụng coi trọng việc xét xử một con người bị tình nghi phạm tội bị phán xét như thế nào tại phiên tòa hơn là việc xác định họ đã làm gì trên thực tế, xét xử tội trạng của họ thiên về phía cạnh pháp lý hơn trong khi đó, hệ thống tố tụng thẩm vấn coi phiên tòa sơ thẩm là giai đoạn điều tra công khai tại phiên tòa, và ở đó Thẩm phán không những là người điều khiển phiên tòa mà còn là người thẩm vấn chính, có nhiệm vụ thẩm tra lại tất cả các chứng cứ do các bên thu thập được trong giai đoạn điều tra trước đó.

Dịch vụ luật sư tranh tụng

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

 Lĩnh vực hoạt động tranh tụng của luật sư

Chúng tôi thực hiện việc bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trước các cơ quan tài phán như: Toà án, Trọng tài và các Cơ quan hành chính Nhà nước, đây là lĩnh vực hoạt động quan trọng của Luật sư.

Các lĩnh vực luật sư tranh tụng như: vụ án dân sự, vụ án hình sự, vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, đầu tư, lao động, hôn nhân gia đình, đất đai, thừa kế, tranh chấp trong nội bộ Công ty giữa các thành viên/cổ đông với nhau.

2. Luật sư với tư cách tham gia theo yêu cầu của khách hàng:

– Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn, bị đơn, người liên quan, người bị hại…

– Luật sư bảo vệ quyền lợi cho người khởi kiện, người bị kiện, người liên quan, trong các vụ án hành chính

– Luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự tại tòa án

Việc hỗ trợ khách hàng trong giải quyết tranh chấp có thể được chúng tôi thực hiện thông qua việc làm trung gian hòa giải giữa các bên tranh chấp; là người đại diện theo ủy quyền hoặc là luật sư bào chữa, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng tại Tòa án hoặc tại Trọng tài thương mại, trong các vụ tranh tụng hình sự, dù được mời hay do chỉ định chúng tôi đều thực hiện với tinh thần trách nhiệm cao, tạo niềm tin cho thân chủ. Đối với các vụ tranh tụng dân sự, chúng tôi phân tích và đưa ra cho khách hàng nhiều phương án và giúp khách hàng lựa chọn phương án hợp lý, giảm thiểu rủi ro, dự liệu các khả năng để khách hàng có thể lựa chọn quyết định đúng đắn, đảm bảo được quyền lợi.

3. Quy trình dịch vụ của luật sư tranh tụng:

Tiếp nhận thông tin vụ việc

Khách hàng liên hệ, cung cấp thông tin vụ việc như sau:

  • Tóm tắt vụ việc:
    – Sự việc xẩy ra như thế nào?
    – Mong muốn của khách hàng là gì?
  • Khách hàng cung cấp các giấy tờ liên quan tới vụ việc gồm:
    – Giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, thí dụ Giấy chứng nhận đăng ký quyền sử dụng đất đai và tài sản gắn liền với đất, Giấy đăng ký tài sản đối với tài sản phải đăng ký (đăng ký xe ô tô, xe máy) v.v… tùy từng trường hợp tranh chấp
    – Các hợp đồng, biên bản bàn giao, biên bản thanh lý (nếu có)
    – Các hóa đơn, phiếu thu, chứng từ khác (nếu có)
    – Các công văn, thư từ trao đổi giữa các bên

Báo phí và ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý

Dựa trên các chứng cứ, giấy tờ, thông tin khách hàng cung cấp, chúng tôi  báo phí dịch vụ luật sư cùng tư vấn sơ bộ về vụ việc. Nếu khách hàng đồng ý, hai bên ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý.

Tiếp nhận vụ việc

  • VPLS GIA ĐÌNH cử một nhóm các luật sư, chuyên viên pháp lý thực hiện yêu cầu của khách hàng.
  • Luật sư hướng dẫn khách hàng bổ sung thông tin, giấy tờ, thu thập chứng cứ liên quan vụ việc
  • Các luật sư và chuyên viên pháp lý nghiên cứu toàn bộ giấy tờ, tài liệu, thông tin của vụ việc
  • Lập bản tóm tắt, chuẩn bị các ý kiến pháp lý về vụ việc

4. Luật sư tư vấn cho khách hàng về vụ việc

Luật sư chuẩn bị bản tư vấn chi tiết với các nội dung chính sau đây:

  • Tư vấn điểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi, khó khăn của vụ việc
  • Đưa ra các giải pháp, phân tích thuận lợi và khó khăn của từng giải pháp
  • Tư vấn lộ trình và các bước thực hiện đối với giải pháp khách hàng lựa chọn
Xem thêm:   Bài bào chữa về tội khủng bố

5. Khởi kiện vụ án

Đối với các vụ án dân sự, vụ án hành chính, vụ án kinh tế, tranh chấp kinh doanh thương mại, vụ án lao động, vụ án hôn nhân gia đình…
Luật sư chúng tôi sẽ thực hiện các công việc dưới đây:

  • Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện vụ án ra tòa án có thẩm quyền
  • Nộp hồ sơ khởi kiện vụ án tại cơ quan có thẩm quyền
  • Theo dõi việc thụ lý hồ sơ tại Tòa án có thẩm quyền
  • Theo dõi các thông báo, triệu tập đương sự tham gia các phiên hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử

Đối với vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra, truy tố:

  • Luật sư có thể có mặt khi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được cơ quan có thẩm quyền lấy lời khai
  • Luật sư có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo hướng gỡ tội cho họ
  • Luật sư có thể khiếu nại các quyết định hoặc hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền nếu các quyết định, hành vi đó không đúng pháp luật làm bất lợi cho thân chủ của mình

6. Luật sư tranh tụng tại Tòa án

Luật sư tham gia tranh tụng tại Tòa án với các công việc như sau:

Giai đoạn trước phiên tòa:

  • Làm thủ tục đăng ký luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án
  • Làm thủ tục đăng ký bào chữa cho bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự
  • Đọc, sao chụp hồ sơ vụ án
  • Nghiên cứu hồ sơ vụ án, hướng dẫn khách hàng thu thập, củng cố chứng cứ có lợi cho khách hàng

Tham gia tố tụng tại Tòa án:

  • Tham gia các phiên hoà giải, đối chất, công khai tài liệu chứng cứ trong vụ án (đối với vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động, hôn nhân gia đình)
  • Tham gia xem xét, thẩm định tại chỗ hoặc giám định tài sản tranh chấp (đối với vụ án dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình)
  • Tham gia xét hỏi, đối đáp, tranh luận, đưa ra yêu cầu có lợi cho khách hàng tại phiên tòa
  • Trình bày luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình
  • Thực hiện việc bảo vệ, bào chữa, đưa ra những bằng chứng, lý lẽ nhằm gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thân chủ của mình
Xem thêm:   Thuê luật sư trong trường hợp bị giam giữ về tội trộm cắp tài sản

7. Thi hành án hoặc kháng cáo

  • Luật sư hướng dẫn khách hàng xử lý các công việc phát sinh
  • Trường hợp khách hàng đồng ý với bản án của Tòa, luật sư hướng dẫn khách hàng ứng xử phù hợp trong giai đoạn thi hành bản án có hiệu lực pháp luật
  • Trường hợp khách hàng đồng ý với bản án của Tòa, luật sư hướng dẫn khách hàng viết đơn kháng cáo bản án

» Bảng giá, chi phí thuê luật sư khởi kiện vụ án

» Dịch vụ luật sư bào chữa

Dịch vụ Luật sư Tranh tụng tại Tòa án: Khi bạn gặp phải vấn đề trước các cơ quan tài phán của Việt Nam hay nước ngoài, hãy liên hệ ngay với luật sư để được hỗ trợ....

206

LS TRẦN MINH HÙNG CHUYÊN GIA TƯ VẤN LUẬT TRÊN TRUYỀN HÌNH

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống,Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ đốt nhà 10 người ở TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

 

 

Luật sư bào chữa xử lý người nhiễm Covid-19 nhập cảnh trái phép

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

1. Người nhiễm Covid-19 nhập cảnh trái phép bị xử lý thế nào?

Nhập cảnh trái phép bị phạt đến 5 triệu đồng

Qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh là hành vi nhập cảnh trái phép. Trong đó, tại điểm a khoản 3 Điều 17 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định:

3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

a) Qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định…

Như vậy, mức phạt hành chính cao nhất với người nhập cảnh trái phép vào Việt Nam là 05 triệu đồng.

Ngoài ra, trường hợp người nước ngoài có hành vi nhập cảnh trái phép thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi Việt Nam (theo khoản 9 Điều 17 Nghị định 167).

Nhập cảnh trái phép, khi nào bị phạt tù?

Điều 347 Bộ luật Hình sự 2015 quy định, người nào nhập cảnh trái phép, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì phạm tội vi phạm quy định về xuất cảnh, nhập cảnh. Theo đó, mức phạt với tội này là phạt tiền từ 05 - 50 triệu đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Như vậy, Tội vi phạm quy định về xuất cảnh, nhập cảnh tại Điều 347 chỉ áp dụng khi người thực hiện hành vi vi phạm đã từng bị phạt hành chính, nếu là lần đầu thực hiện thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trốn cách ly khi nhập cảnh bị phạt bao nhiêu tiền?

Hiện nay tình hình dịch bệnh Covid vẫn đang diễn biến phức tạp trên toàn thế giới. Vì vậy, căn cứ Hướng dẫn tạm thời về giám sát người nhập cảnh vào Việt Nam ban hành kèm Công văn 4995/BYT-DP, bất kỳ trường hợp nào nhập cảnh vào Việt Nam đều phải thực hiện cách ly 14 ngày.

Bên cạnh đó, theo Quyết định 219/QĐ-BYT, Covid-19 được liệt kê vào danh mục các bệnh truyền nhiễm nhóm A. Trong đó, mức phạt với hành vi vi phạm quy định về cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế tại khoản 2 Điều 11 Nghị định 117/2020/NĐ-CP được quy định như sau:

2. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Không tổ chức cách ly y tế đối với người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A;

b) Từ chối hoặc trốn tránh việc áp dụng quyết định cách ly y tế, cưỡng chế cách ly y tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A đối tượng kiểm dịch y tế biên giới mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A hoặc khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu…

Như vậy, người trốn cách ly khi nhập cảnh có thể bị phạt tiền đến 20 triệu đồng.

Trốn cách ly khi nhập cảnh bị phạt đến tù đến 12 năm

Theo khoản 1 Công văn 45/TANDTC-PC, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 Bộ luật Hình sự về Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người.

Cụ thể, mức phạt áp dụng cho người không tuân thủ cách ly làm lây lan dịch bệnh theo quy định của Điều 240 là phạt tiền từ 50 - 200 triệu đồng hoặc bị phạt tù từ 01 - 05 năm.

Ngoài ra, tùy thuộc vào hậu quả của hành vi trốn cách ly, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 05 - 10 năm khi dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế hoặc làm chết 01 người.

Trường hợp dẫn đến phải công bố dịch thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ hoặc làm chết 02 người trở lên thì bị phạt tù từ 10 - 12 năm.

Hình phạt bổ sung của tội này là phạt tiền từ 20 - 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 - 05 năm.

Lưu ý: Nếu bị xử lý hình sự, Cơ quan có thẩm quyền tố tụng là Tòa án sẽ dựa trên các quy định của pháp luật để đưa ra hình phạt phù hợp.

2. Người đang đi tù có phải trả nợ không?

Trong thực tế của đời sống, không phải ai cũng có một khối tài sản cố định phục vụ cho việc làm ăn, kinh doanh.. Do đó, quan hệ vay tài sản ra đời và trở nên phổ biến. Theo đó, giữa các bên thỏa thuận về việc cho vay: bên cho vay giao tài sản cho bên vay; đến hạn trả nợ, bên vay có nghĩa vụ hoàn trả tài sản và phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật. Như vậy, được thỏa thuận và ghi nhận trong hợp đồng vay, nghĩa vụ trả nợ phải được thực hiện khi đến hạn trả nợ. Tuy nhiên, không phải hợp đồng vay nào cũng được thực hiện suôn sẻ. Một trong số đó là trường hợp người vay phải chấp hành hình phạt tù khi chưa thực hiện nghĩa vụ. Vậy, trường hợp bên vay nếu đi tù thì có phải trả nợ không?

1. Nghĩa vụ trả nợ

Hợp đồng vay tài sản được quy định trong Bộ Luật dân sự 2015 như sau:

“Điều 463. Hợp đồng vay tài sản

Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”

Như vậy, đối với Hợp đồng vay tài sản cần chú ý đến các nội dung sau đây:

a) Đối tượng của hợp đồng: Tài sản vay

Khoản vay là tiền hay vật quyết định đến việc thanh toán nợ sau này. Nếu tài sản vay là tiền thì người vay có nghĩa vụ trả đủ tiền khi đến hạn thanh toán; tài sản là vật thì phải trả bằng vật cùng loại với số lượng, chất lượng đã thỏa thuận trong Hợp đồng vay.

b) Thời hạn thực hiện hợp đồng: Thời hạn thực hiện nghĩa vụ của các bên

Hợp đồng vay gồm hai loại: Hợp đồng vay không kỳ hạn và hợp đồng vay có kỳ hạn. Cụ thể với từng loại Hợp đồng, thời hạn thanh toán khoản vay và khoản lãi (nếu có) là khác nhau. Chính vì vậy đây là điểm cần lưu ý khi thực hiện ký kết hợp đồng vay.

c) Hình thức của hợp đông vay:

Hình thức của hợp đồng vay tài sản có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. Hình thức miệng được áp dụng trong các quan hệ vay với tài sản có giá trị nhỏ, giữ bên vay và cho vay có sự tin tưởng cao. Phổ biến hơn là hình thức hợp đồng văn bản, các bên sẽ có cơ sở cho việc thực hiện cũng như giải quyết nhanh chóng các tranh chấp về hợp đồng vay sau này.

Hợp đồng vay về bản chất là quan hệ dân sự giữa bên vay và bên cho vay. Đến thời hạn thanh toán, bên vay vì lý do nào đó không thể thực hiện được ngay nghĩa vụ, có thể thỏa thuận với bên cho vay về việc giãn nợ; thỏa thuận chậm thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định; Điều này cần được sự đồng ý của bên cho vay. Đối với việc chậm thanh toán của bên vay, bên cho vay được thanh toán một khoản lãi từ tài sản thanh toán chậm tương ứng với thời gian thanh toán chậm, tùy vào thỏa thuận giữa các bên.

2. Đang đi tù có phải trả nợ không?

Trên thực tế, đã có nhiều trường hợp bên vay chưa hoàn thành nghĩa vụ thanh toán nợ thì phải đi tù (chấp hành hình phạt tù). Với trường hợp này, bên vay đang đi tù có phải trả nợ không?

Đến nay, pháp luật không có quy định về người đang đi tù bị hạn chế nghĩa vụ dân sự nói chung, và nghĩa vụ trả nợ nói riêng. Do đó, người đang đi tù nếu không thể thực hiện ngay nghĩa vụ thanh toán nợ, có thể yêu cầu hoãn thực hiện nghĩa vụ.

a) Hoãn thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đang đi tù

Theo đó, trường hợp người vay đang đi tù, chưa thể thực hiện ngay nghĩa vụ trả nợ, có thể thỏa thuận với bên cho vay là sau khi thi hành ánh hoàn thành sẽ thực hiện nghĩ vụ trả nợ đó. Thỏa thuận này phải được bên cho vay phải đồng ý thì bên vay mới được hoãn nghĩa vụ trả nợ. Được quy định tại Bộ Luật dân sự năm 2015 như sau:

“Điều 354. Hoãn thực hiện nghĩa vụ

1. Khi không thể thực hiện được nghĩa vụ đúng thời hạn thì bên có nghĩa vụ phải thông báo ngay cho bên có quyền biết và đề nghị được hoãn việc thực hiện nghĩa vụ.

Trường hợp không thông báo cho bên có quyền thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại phát sinh, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc do nguyên nhân khách quan không thể thông báo.

2. Bên có nghĩa vụ được hoãn việc thực hiện nghĩa vụ, nếu được bên có quyền đồng ý. Việc thực hiện nghĩa vụ khi được hoãn vẫn được coi là thực hiện đúng thời hạn.”

b) Ủy quyền thực hiện nghĩa vụ trả nợ thông qua bên thứ ba

Trường hợp bên cho vay không đồng ý thỏa thuận hoãn thực hiện trả nợ thì bên vay không được hoãn nghĩa vụ thanh toán (Khoản 2). Bên vay có thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng cách ủy quyền thực hiện nghĩa vụ thông qua bên thứ ba. Bên thứ ba được ủy quyền có thể là người thân, bạn bè của người vay. Nội dung này được quy định như sau:

“Điều 283. Thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba

Khi được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể ủy quyền cho người thứ ba thay mình thực hiện nghĩa vụ nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền, nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.”

Như vậy, trường hợp người vay đi tù hay đang phải chấp hành bản án khác thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Hoặc tự mình thực hiện, hoặc thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba.

20208

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn!.

Luật sư tranh tụng tội mua bằng giả nhưng không sử dụng

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

1. Trách nhiệm thuộc về ai khi giấy tờ giả mạo được công chứng?

Tóm tắt câu hỏi:

A muốn xây nhà trên mảnh đất X ( mảnh đất đã được A mua lại từ người quen) nhưng vì chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên chính quyền không cho phép xây dựng. A nhờ C là cò đất giúp đỡ. C đã làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mảnh đất X nhưng để tên mình là người đứng tên cùng một số giấy tờ giả mạo cá nhân khác và sau đó bán mảnh đất X cho D với giá 7 tỷ đồng. C và D ký hợp đồng mua bán và đã công chứng tại phòng công chứng E. D tiến hành xây nhà trên mảnh đất, khi xây xong, A phát hiện và giữa A, D xảy ra tranh chấp

Trong trường hợp này, ai là người chịu trách nhiệm chính đối với vụ việc nêu trên? Phòng công chứng E có trách nhiệm với vụ việc nêu trên và bị xử phạt hay không? A có được Phòng công chứng bồi thường thiệt hại hay không?

Luật sư Gia Đình tư vấn

Các hành vi bị nghiêm cấm

Khoản 2 Điều 7 Luật công chứng 2014 quy định nghiêm cấm cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi sau đây:

– Giả mạo người yêu cầu công chứng;

– Người yêu cầu công chứng cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa, sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng;

– Người làm chứng, người phiên dịch có hành vi gian dối, không trung thực;

– Cản trở hoạt động công chứng.

Xem thêm: Các trường hợp từ chối công chứng theo quy định của pháp luật

Quy định về người yêu cầu công chứng

Điều 47 Luật công chứng quy định về người yêu cầu công chứng như sau:

– Người yêu cầu công chứng là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự.

– Trường hợp người yêu cầu công chứng là tổ chức thì việc yêu cầu công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của tổ chức đó.

– Người yêu cầu công chứng phải xuất trình đủ giấy tờ cần thiết liên quan đến việc công chứng và chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của các giấy tờ đó.

Xử lý vi phạm đối với người yêu cầu công chứng

Người yêu cầu công chứng có hành vi cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo, sửa chữa, tẩy xóa giấy tờ, văn bản trái pháp luật hoặc có hành vi gian dối khác khi yêu cầu công chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Một số nghĩa vụ của công chứng viên

Công chứng viên có một số nghĩa vụ sau đây:

– Tuân thủ các nguyên tắc hành nghề công chứng;

– Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng;

– Giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng;

– Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;

– Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh;

– Chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của tổ chức hành nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên mà mình là thành viên.

Xử lý vi phạm đối với công chứng viên

Công chứng viên vi phạm quy định của Luật công chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng

Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.

Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối chiếu với tình huống của anh/chị

Thứ nhất, về người chịu trách nhiệm chính

C cố tình làm giả giấy tờ và đã vi phạm nội dung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 Luật công chứng. Cụ thể, điều luật quy định nghiêm cấm người yêu cầu công chứng cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo hoặc bị tẩy xóa, sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng. Do đó, C là người chịu trách nhiệm chính trong trường hợp trên.

Theo đó, C tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị:

– Xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 12 Nghị định 110/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP:

+ Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với hành vi cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo để được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch.

+ Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi làm giả giấy tờ, văn bản hoặc giả mạo, thuê hoặc nhờ người khác giả mạo người yêu cầu công chứng để được công chứng hợp đồng, giao dịch; làm giả giấy tờ, văn bản để được công chứng bản dịch.”

– Hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341 ) hoặc Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung 2017 ,…

Thứ hai, về trách nhiệm của phòng công chứng E

Điểm c Khoản 2 Điều 17 Luật công chứng quy định công chứng viên có nghĩa vụ ” tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng.” Việc công chứng viên xem xét tính hợp pháp của các loại giấy tờ là biện pháp để thực hiện nghĩa vụ trên. Do đó, công chứng viên có một phần trách nhiệm trong việc xác định giấy tờ giả mạo. Vì phải chịu trách nhiệm một phần nên phòng công chứng E cũng bị xử phạt tùy theo mức độ do mình gây ra.

Trường hợp khi cơ quan điều tra chứng minh được công chứng viên biết giấy tờ giả mà vẫn chứng thì tùy vào tính chất mức độ hậu quả hành vi mà bị:

– Xử phạt hành chính theo Điểm đ khoản 3 Điều 14 Nghị định 110/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP: Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi công chứng hợp đồng, giao dịch trong trường hợp không có căn cứ xác định quyền sử dụng, sở hữu riêng đối với tài sản khi tham gia giao dịch;

– Hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo Khoản 11 Điều 360 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung 2017:

“11. Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.”

Thứ ba, về quyền được hưởng bồi thường thiệt hại của A

C là người chịu trách nhiệm chính trước pháp luật nên C là người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho A.

Ngoài ra, Điều 38 Luật công chứng đã quy định về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng đối với thiệt hại do công chứng viên của tổ chức mình gây ra. Cụ thể: Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.

Do đó, chị A sẽ được bồi thường một phần thiệt hại từ phòng công chứng E. Đơn vị chịu trách nhiệm bồi thường là công ty bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp mà Phòng công chứng E đã mua. Tuy nhiên, thủ tục bồi thường cũng khá khó khăn do bên bảo hiểm luôn yêu cầu phải đem sự việc ra tòa để xác định mức độ lỗi.

2. Mua bằng giả nhưng không sử dụng thì có phạm tội không

Câu hỏi của khách hàng: Mua bằng giả nhưng không sử dụng thì có phạm tội không

Cách đây 1 năm em có liên hệ trên mạng mua 1 tấm bằng cao đẳng nghề . Của 1 người ở Hà nội. Sau khi cung cấp thông tin . Và chuyển khoản số tiền 3.5 triệu. Em nhận được bằng. Nhưng bằng giả mà em nhận chất lượng quá kém nhìn là phát hiện ra là giả ngay nên em đã xé và vất đi ngay sau khi nhận . Nhưng nay công an hà nội có gọi điện cho em là bắt được 2 đối tượng làm bằng giả và xác minh em đã từng mua bằng của chúng . Nên mời em thứ 6 lên cơ quan công an hà nội để điều tra nếu không đến sẽ gửi giấy triệu tập về địa phương. Nhưng hiện em đang làm ăn xa trong nam. Và không thể về hà nội được. Thì em có bị truy tố không ạ. Rất mong được luật sư giải đáp ạ. Em xin cảm ơn

1/Cơ sở Pháp Luật điều chỉnh vấn đề Mua bằng giả nhưng không sử dụng thì bị xử lý như thế nào

• Nghị định 138/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục

• Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017

2./ Luật sư trả lời Mua bằng giả nhưng không sử dụng thì có phạm tội không

Bằng cấp, chứng chỉ nghề, học tập… là những giấy tờ do các cơ quan tổ chức sử dụng để chứng nhận quá trình học tập của một người từ đó họ có thể sử dụng giấy tờ này để xin việc tại các cơ quan, tổ chức khác. Do mức độ quan trọng của giấy tờ này đối với hệ thống giáo dục nên pháp luật nhà nước đã có những quy định điều chỉnh việc sử dụng và cấp chứng chỉ, bằng cấp học tập trái phép.

Căn cứ Điều 341 Bộ luật hình sự:

“Điều 341. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

1.Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a)Có tổ chức;

b)Phạm tội 02 lần trở lên;

c)Làm từ 02 đến 05 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác;

d)Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng;

đ)Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng;

e)Tái phạm nguy hiểm.

3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a)Làm 06 con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác trở lên;

b)Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

c)Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.

4.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

Thì việc bạn mua và không sử dụng bằng giả mua được sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định trên.

Tuy nhiên, căn cứ Khoản 3 và Khoản 5 Điều 16 Nghị định 138/2013/NĐ-CP:

“Điều 16: Vi phạm quy định về sử dụng và công khai thông tin cấp văn bằng, chứng chỉ

… 3.Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi mua bán, sử dụng văn bằng, chứng chỉ giả. …

5.Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này”.

Theo đó, với hành vi mua bằng nhưng không sử dụng bằng giả thì bạn sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng và bị tịch thu bằng giả (trong trường hợp của bạn sẽ không có để tịch thu, do bạn đã xé tấm bằng giả này).

Như vậy, trong trường hợp của bạn, hành vi mua mà không sử dụng bằng giả sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bạn có trách nhiệm hợp tác điều tra khi được công an yêu cầu. Nếu không về được theo giấy triệu tập, bạn cần gửi văn bản nêu rõ lý do để hoãn.

htv moi

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn!.

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006