Thảo Lương.

Có thông tin 1 công ty gửi bảng báo giá quảng cáo cho thủ môn Bùi Tiến Dũng với mức báo giá khủng

điều này ảnh hưởng uy tiến tiến dũng và FLC (quản lý TD) vô cùng

em muốn hỏi vài câu ạ?

1.     Khi cầu thủ ký hợp đồng với 1 câu lạc bộ thì câu lạc bộ đó có được toàn quyền quyết định hình ảnh của cầu thủ đó ko?

Hợp đồng là sự thỏa thuận của 2 bên trên tinh thần tự nguyện và tuân theo pháp luật. Nếu trong hợp đồng có thỏa thuận câu lạc bộ chủ quản được độc quyền khai thác, quyết định hình ảnh của cầu thủ thì câu lạc bộ chủ quản sẽ toàn quyết quyết định vấn đề đó. Nếu trong hợp đồng không có điều khoản này thì cầu thủ có thể ký hợp đồng với tổ chức, công ty khác.

2.     Cầu thủ đó có biên chế nhất định ở 1 clb rồi thì có được phép kí hợp đồng với bên khác ko?

Điều 18 Bộ luật Lao động quy định, người lao động và chủ sử dụng lao động phải trực tiếp ký hợp đồng lao động với nhau. Tuy nhiên, Điều 25 Quy chế bóng đá chuyên nghiệp 2013 sửa đổi 2015 ban hành kèm theo Quyết định số 528/QĐ-LĐBĐVN ngày 10/12/2014 của Ban Chấp hành Liên đoàn Bóng đá Việt Nam lại cho phép các bên mượn cầu thủ (người lao động của nhau).

Cũng theo Khoản 3, Điều 17 của Quy chế nêu trên, cầu thủ (người lao động) có thể được "ký kết hợp đồng với một câu lạc bộ khác khi hợp đồng với câu lạc bộ hiện thời đã hết hạn hoặc sẽ hết hạn trong vòng 6 tháng mà hai bên không quyết định gia hạn hay ký tiếp".

Hiện nay Bộ luật lao động có quy định 2 trường hợp như sau:

Người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết (Điều 21). Theo đó, một cầu thủ có thể ký kết hợp đồng lao động với nhiều câu lạc bộ khác nhau nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết trong hợp đồng lao động.

 Người lao động đã được tuyển dụng bởi doanh nghiệp được cấp phép hoạt động cho thuê lại lao động sau đó làm việc cho người sử dụng lao động khác, chịu sự điều hành của người sử dụng lao động sau và vẫn duy trì quan hệ lao động với doanh nghiệp cho thuê lại lao động.

Thông thường cầu thủ có biên chế nhất định ở một câu lạc bộ rồi thì không được quyền ký hợp đồng với câu lạc bộ khác, trừ một số trường hợp mà các bên có ghi trong hợp đồng. Hầu hết các câu lạc bộ tại Việt Nam đều có quy định điều khoản này trong hợp đồng.

Nếu ký hợp đồng bảo trợ hình ảnh với bên khác thì dựa theo luật nào? Nếu đã ký thì có sai không? Mức phạt là gì?

Điều này được điều chỉnh bởi hợp đồng mà câu lạc bộ chủ quản và cầu thủ ký với nhau có thỏa thuận điều này hay không nhưng phải phù hợp với Luật lao động cũng như Quy chế bóng đá chuyên nghiệp. Khi tranh chấp xảy ra chủ yếu dựa vào hợp đồng, Luật lao động và các quy chế để giải quyết.

Nếu 1 bên khác muốn dùng hình ảnh cầu thủ Tiến Dũng để làm truyền thông, có cần phải thông qua CLB đang quản lý trực tiếp Tiến Dũng (FLC ) hay không?

Nếu xảy ra tranh chấp thì giải quyết, xử phạt trạnh chấp thế nào

Như tôi đã phân tích, nếu trong hợp đồng còn thời hạn và có quy định câu lạc bộ được toàn quyền khai thác hình ảnh độc quyền, hợp đồng còn thời hạn... thì 1 bên khác muốn dùng hình ảnh cầu thủ Tiến Dũng để làm truyền thông, cần phải thông qua CLB đang quản lý, cụ thể ở đây là CLB Thanh Hóa đồng ý.

Nếu xảy ra tranh chấp câu lạc bộ có quyền khởi kiện tổ chức khác khai thác hỉnh ảnh trái phép cũng như kiện cầu thủ do vi phạm hợp đồng yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh và phạt vi phạm mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.

 

THUÊ NGƯỜI YÊU DỊP TẾT - CẨN THẬN RƯỚC NHẦM YÊU RÂU XANH

- Dịch vụ thuê người yêu có được xem là một ngành nghề lao động hay không? Và nếu có ký hợp đồng thì hợp đồng này có giá trị pháp lý như thế nào?

- Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, bản thân người thuê và người được thuê sẽ có thể gặp những rủi ro gì?

Xét ở góc độ pháp luật thì tính chắc chắn của những thỏa thuận về dịch vụ này không được đảm bảo, nếu chấp thuận với giao dịch, hợp đồng được tạo chỉ là hợp đồng dân sự và đương nhiên, nếu có những tranh chấp gì không may xảy ra thì sẽ khó cân đo về thiệt hơn giữa các bên.

Về phía cộng đồng cũng đã có nhiều luồng ý kiến khác nhau, có người cho đó là điều tốt vì giải quyết được những khó khăn trước mắt.

Tuy nhiên, cũng có không ít những luồng ý kiến cho rằng “Cho thuê bạn gái là ý tưởng không tốt, Các cô gái dễ có nguy cơ bị xâm hại tình dục hay những người đi thuê người yêu cũng hoàn toàn có khả năng rơi vào cái bẫy của những kẻ lừa đảo, trộm cắp tài sản...

Xét dưới góc độ đạo đức thì đây là một hành vi lừa dối, vì hành động mượn "người đóng thế" làm người yêu để qua mặt các bậc phụ huynh, vô tình khiến người đi thuê trở thành người không trung thực.

Và việc thuê người yêu có ngoại hình đẹp, biết cách cư xử trước gia đình, bạn bè chỉ là biện pháp tạm thời trong cảm xúc, còn tiếp theo những ngày hết hợp đồng sẽ lại là những sự dị nghị mà nhiều người chưa lường hết được.

Vô hiệu do bị lừa dối, trái pháp luật, đây không phải quan hệ lao động, giao dịch dân sự vô hiệu...nếu xảy ra tranh chấp thì luôn rủi ro cho các bên nên không nên tham gia các giao dịch này.

1/. TÌNH TRẠNG MUA BÁN, CHÊ STAOJ VÀ SỬ DỤNG PHÁO DỊP TẾT

- Hiện nay việc các đối tượng lợi dụng các trang mạng xã hội để buôn bán hàng cấm, trong đó có pháo nổ các loại đang diễn biến ngày càng phức tạp.

Việc xử lý những đối tượng buôn bán pháo nổ trên mạng xã hội đang gặp khó khăn gì? [Việc mua bán diễn ra công khai nhưng giao dịch lại là giao dịch ngầm...]

- Bên cạnh việc tổ chức mua bán, hiện nay tình trạng tự chế tạo và sử dụng pháo cũng diễn ra phức tạp, nhiều trường hợp xảy ra tai nạn gây thương tật cho chính người chế tạo, sử dụng.

Vậy xin luật sư cho biết, hành vi tự ý chế tạo, sử dụng pháo nổ có vi phạm pháp luật hay không và có thể bị xử lý như thế nào trước pháp luật?

Việc chế tạo, sử dụng pháo nổ gây thương tích cho những người xung quanh sẽ bị xử lý như thế nào?

Lời khuyên dành cho người dân khi có ý định chế tạo, sử dụng pháo nổ trái phép?

2/. THUÊ NGƯỜI YÊU DỊP TẾT - CẨN THẬN RƯỚC NHẦM YÊU RÂU XANH

- Dịch vụ thuê người yêu có được xem là một ngành nghề lao động hay không? Và nếu có ký hợp đồng thì hợp đồng này có giá trị pháp lý như thế nào?

- Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, bản thân người thuê và người được thuê sẽ có thể gặp những rủi ro gì?

 

Luật sư Trần Minh Hùng trả lời:

Nội dung được phát sóng trên Kênh Đài truyền hình vĩnh long mục câu chuyện pháp luật, lời cảnh báo, người đưa tin 24g.

Theo hướng dẫn tại điểm a mục 1 Phần I Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/12/2008 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, sử dụng trái phép pháo nổ và thuốc pháo thì: “pháo nổ” (không phân biệt xuất xứ hoặc nơi sản xuất) là loại sản phẩm bên trong có chứa thuốc pháo và khi có yếu tố ngoại lực tác động thì gây tiếng nổ.

Và theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 2 Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009 của Chính phủ về quản lý sử dụng pháo thì: Pháo nổ là loại sản phẩm có chứa thuốc pháo được chế tạo bằng các công nghệ khác nhau không phân biệt xuất xứ và nơi sản xuất, khi có tác động của các kích thích cơ, nhiệt, hóa, điện gây nên tiếng nổ.

Pháo hoa là sản phẩm có chứa thuốc pháo hoa, khi có các tác động của các  kích thích cơ, nhiệt, hóa, điện sẽ gây phản ứng hóa học tạo hiệu ứng ánh sáng có màu sắc, gây tiếng nổ hoặc không gây tiếng nổ. 

Như vậy, pháp luật hiện hành chỉ có quy định về pháo nổ và pháo hoa, không có quy định về pháo hoa nổ. Do đó, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định cơ quan chuyên môn để xác định vật chứng thu giữ là pháo nổ hay pháo hoa gây khó khăn cho công tác xử lý.

Trước tình hình đó, mới đây Tòa án nhân dân tối cao đã có Công văn hướng dẫn số 340/TANDTC-PC ngày 22-12-2017 cùng với Công văn số 91/TANDTC-PC ngày 28-4-2017 về việc xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán “pháo hoa nổ trong nội địa; Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ ngày 1-1-2018 thì các hành vi vi phạm về pháo đã được các văn bản pháp luật điều chỉnh xử lý kịp thời, không để các đối tượng lợi dụng vi phạm.

Theo đó, khi bị phát hiện đang sử dụng, tàng trữ và buôn bán trái phép pháo nổ mà không được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thì tùy thuộc vào mức độ thực tế thì sẽ bị xử phạt hành chính cho tới truy cứu trách nhiệm hình sự theo nhiều mức phạt. 

Và kể từ ngày 1-1-2018, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành thì các hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội liên quan đến pháo nổ sẽ bị xử lý nghiêm hơn. Theo quy định, tất cả các hành vi sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ pháo nổ sẽ bị xử lý hình sự khi bảo đảm yếu tố định lượng.

Để ngăn chặn tình trạng buôn bán, vận chuyển, sử dụng pháo, Công an các địa phương cần tăng cường tuyên truyền, vận động người dân việc thực hiện tốt Nghị định 36/CP. 

Xử lý nghiêm các đối tượng sản xuất, mua, bán, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng pháo trái phép; các vụ án đã khởi tố chủ động phối hợp với Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân đưa ra xét xử nhanh và xử lưu động trước Tết Nguyên đán để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. 

Đẩy mạnh tuần tra kiểm soát, bắt giữ và xử lý các hành vi vi phạm về pháo, kể cả thời điểm giao thừa. Kịp thời động viên, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện Nghị định 36/CP. Đồng thời, phê bình, kiểm điểm trách nhiệm đối với những tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu các đơn vị địa phương buông lỏng quản lý để xảy ra tình trạng sử dụng pháo mà không phát hiện, xử lý kịp thời.

Quy định xử lý tội sản xuất, tàng trữ, buôn bán, vận chuyển pháo nổ

- Các hành vi sản xuất, buôn bán pháo nổ từ 6 kg đến dưới 40 kg sẽ bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Các hành vi tàng trữ, vận chuyển với số lượng trên sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm tù.

- Các hành vi sản xuất, buôn bán pháo nổ từ 40 kg đến dưới 120 kg sẽ bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm. Các hành vi tàng trữ, vận chuyển với số lượng trên sẽ bị phạt tù từ 2 năm đến 5 năm.

- Các hành vi sản xuất, buôn bán pháo nổ từ 120 kg trở lên sẽ bị phạt tù từ 8 năm đến 15 năm. Các hành vi tàng trữ, vận chuyển với số lượng trên sẽ bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm.

- Các hành vi gây rối trật tự công cộng do đốt pháo nổ gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.

Nguồn: Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2015 -2017

Điều 305. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ

1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Thuốc nổ các loại từ 10 kilôgam đến 30 kilôgam hoặc từ 1.000 đến 3.000 nụ xùy hoặc ống nổ; từ 3.000 mét đến dưới 10.000 mét dây cháy chậm, dây nổ;

c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

d) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

h) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Thuốc nổ các loại từ trên 31 kilôgam đến 100 kilôgam; từ 3.001 đến 10.000 nụ xùy hoặc ống nổ hoặc từ 10.000 mét đến dưới 30.000 mét dây cháy chậm, dây nổ;

b) Làm chết 02 người;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Thuốc nổ các loại từ 101 kilôgam trở lên; từ 10.001 nụ xuỳ hoặc ống nổ trở lên hoặc từ 30.000 mét dây cháy chậm, dây nổ trở lên;

b) Làm chết 03 người trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

đ) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

Xét ở góc độ pháp luật thì tính chắc chắn của những thỏa thuận về dịch vụ này không được đảm bảo, nếu chấp thuận với giao dịch, hợp đồng được tạo chỉ là hợp đồng dân sự và đương nhiên, nếu có những tranh chấp gì không may xảy ra thì sẽ khó cân đo về thiệt hơn giữa các bên.

Về phía cộng đồng cũng đã có nhiều luồng ý kiến khác nhau, có người cho đó là điều tốt vì giải quyết được những khó khăn trước mắt.

Tuy nhiên, cũng có không ít những luồng ý kiến cho rằng “Cho thuê bạn gái là ý tưởng không tốt, Các cô gái dễ có nguy cơ bị xâm hại tình dục hay những người đi thuê người yêu cũng hoàn toàn có khả năng rơi vào cái bẫy của những kẻ lừa đảo, trộm cắp tài sản...

Xét dưới góc độ đạo đức thì đây là một hành vi lừa dối, vì hành động mượn "người đóng thế" làm người yêu để qua mặt các bậc phụ huynh, vô tình khiến người đi thuê trở thành người không trung thực.

Và việc thuê người yêu có ngoại hình đẹp, biết cách cư xử trước gia đình, bạn bè chỉ là biện pháp tạm thời trong cảm xúc, còn tiếp theo những ngày hết hợp đồng sẽ lại là những sự dị nghị mà nhiều người chưa lường hết được.

Vô hiệu do bị lừa dối, trái pháp luật, đây không phải quan hệ lao động, giao dịch dân sự vô hiệu...nếu xảy ra teranh chấp thì luôn rủi ro cho các bên nên không nên tham gia các giao dịch này.

PGĐ Công an Kiên Giang nói về vụ bêu danh tính người bán dâm

Như Ý | 30/01/2018 17:48

17
 
 

PGĐ Công an Kiên Giang nói về vụ bêu danh tính người bán dâm

Một cán bộ công an đọc quyết định xử phạt những người mua, bán dâm. Ảnh cắt từ clip.

Mạng xã hội xôn xao việc nhà chức trách "bêu danh tính” 4 người mua bán dâm ngoài đường. Theo lãnh đạo công an Kiên Giang, đây là việc làm phản cảm.

 

Ngày 30/1, trên mạng xã hội chia sẻ một video dài hơn 4 phút về việc công an ở Phú Quốc (Kiên Giang) đọc công khai danh tính những người mua dâm và bán dâm ngoài đường.

Trong video, công an đọc to rõ họ tên, tuổi, quê quán, hành vi mua bán dâm rồi yêu cầu 4 người (1 nam, 3 nữ) bước lên cho mọi người nhìn. Nhiều người đi đường, trong đó có cả trẻ em đứng xem. 

Tìm hiểu của PV, vụ việc trên xảy ra tại đường Cách Mạng Tháng Tám, khu phố 10, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc vào chiều 29/1.

PV đã trao đổi với Thiếu tá Dương Thiết Tâm, Phó Trưởng Công an thị trấn Dương Đông và được ông xác nhận vụ việc. Theo vị thiếu tá, đây là buổi công bố quyết định xử phạt các đối tượng có hành vi mua bán dâm xảy ra trên địa bàn.

Đại tá Lưu Thành Tín - Phó giám đốc Công an tỉnh Kiên Giang, cho biết ông đã nắm được vụ việc công an công khai hành vi mua bán dâm và chứa mại dâm tại thị trấn Dương Đông.

"Hiện nay chúng tôi đang họp và chỉ đạo lượng lượng Công an huyện Phú Quốc kiểm tra, làm rõ nội dung trong video. Nếu thật thì đây là việc làm phản cảm. Khi có thông tin cụ thể chúng tôi sẽ trả lời đến báo chí", Đại tá Tín nói.

PGĐ Công an Kiên Giang nói về vụ bêu danh tính người bán dâm - Ảnh 1.

Những người bị bêu tên ngoài đường. Ảnh cắt từ clip.

Về việc công an có được công khai danh tính người mua bán dâm ngoài đường, luật sư Trần Minh Hùng - Đoàn Luật sư TP HCM cho biết, hành vi trên có dấu hiệu làm nhục người khác.

"Pháp luật nước ta cũng như Hiến pháp bảo vệ quyền nhân thân, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và được bảo vệ toàn vẹn thân thể, nhân phẩm.

Một người chỉ coi là có tội khi có bản án có hiệu lực pháp luật tuyên người đó có tội. Nếu vụ này chưa có bất kỳ bản án nào thì các cơ quan chức năng đang làm nhục công dân.

 

Theo tôi, hành vi những ai làm nhục cần điều tra, xử lý theo quy định. Thậm chí nếu có dấu hiệu hình sự thì xử lý theo quy định về hành vi làm nhục người khác", luật sư Hùng nói.

link đầy đủ: http://soha.vn/pho-giam-doc-cong-an-kien-giang-noi-ve-vu-beu-danh-tinh-nguoi-ban-dam-ngoai-duong-day-la-viec-rat-phan-cam-20180130173731817.htm

Nguồn: Soha

Gửi anh Hùng: Vụ bị phạt hơn 300 triệu tiền nước

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Trần Vĩnh Tuyến vừa có ý kiến chỉ đạo Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn TNHH Một thành viên kiểm tra, báo cáo về một gia đình ở Q.11 bị cắt nước suốt hơn 5 năm. “Đối tượng” bị cắt nước là gia đình một cụ ông năm nay đã 75 tuổi. Vụ việc đã kéo dài nhiều năm, cơ quan chức năng thành phố, báo chí đã từng vào cuộc nhưng đến nay gia đình cụ ông vẫn “khát nước”.

Ông Lý Ngầu trình bày : Vào ngày 26/12/2012, đến hạn thay đồng hồ nước định kỳ 5 năm/lần, nhân viên của Công ty (CT) cổ phần cấp nước Phú Hòa Tân (PHT) đến nhà ông để thay. Khi tháo đồng hồ, nhân viên CT nói cầu chì giả và cho là gia đình ông đã trộm cắp nước.

Ông yêu cầu mời tổ trưởng và công an khu vực đến chứng kiến, lắp đặt đồng hồ lại như cũ và gọi điện về CT cho nhân viên kỹ thuật đến giải quyết. Nhân viên kỹ thuật của CT đã đến kiểm tra, tháo đồng hồ nước ra lần 2, sau đó rã toàn bộ đồng hồ nước.

Phía CT đã lập biên bản có sự chứng kiến của tổ trưởng và công an khu vực với nội dung: “Chì niêm phong mặt đồng hồ là dây đôi xoắn, không đúng dây chì; năm sản xuất, không đúng mã số chì của CT; khi tháo rời để kiểm tra bên trong hộp số và bộ phận nhông quay cánh quạt, xác định chong chóng cánh quạt có dấu mài mòn ít, cạnh hộp phun bị bể 40%, có sự tác động đến đồng hồ nước để gian lận”. Cho là khách hàng vi phạm, CT đã cắt nước và thu hồi đồng hồ nước đã niêm phong.

Ngày 27/12/2012, CT mời ông Ngầu lên lập biên bản xác định lại những nội dung trong biên bản trước đó. Tại biên bản này, ông Ngầu một lần nữa cho rằng mình không hề vi phạm như CT quy kết, đồng thời gửi kèm đơn xin cứu xét, trong đó khẳng định mình không hề can thiệp vào đồng hồ nước.

Ngày 4/1/2013, CT gửi thông báo cho ông Ngầu, yêu cầu bồi thường thiệt hại trong 49 tháng, với định mức 8m3 /người/tháng, nhân với 50 người (tổng số người sử dụng nước, bao gồm gia đình ông và những người thuê trọ).

Giá nước truy thu tính theo giá nước sạch cao nhất là 17.480đ/ m3 (chưa bao gồm thuế GTGT và phí bảo vệ môi trường), tổng cộng 342 triệu đồng. Đến ngày 8/5/2013, CT cho tính lại với mức truy thu theo đơn giá nước hằng năm, buộc ông đóng hơn 274 triệu đồng.

 
Thiếu cơ sở xác định "trộm nước"? 

Không đồng tình, ông Ngầu đã khiếu nại, cho rằng hiện trường kiểm tra đồng hồ nước “có vấn đề”. Ông nói: “Họ đến kiểm tra cấp tập, sau đó cho người tháo rã đồng hồ nước.

Đồng hồ nước là do ngành cấp nước cung cấp, niêm chì cũng do ngành cấp nước làm, hàng tháng đều có nhân viên cấp nước đến ghi chỉ số để thu tiền nước. Trách nhiệm của họ là phải kiểm tra định kỳ, sao để đến 5 năm mới phát hiện, rồi không niêm phong nguyên hiện trạng đồng hồ để gửi đi kiểm định tại một cơ quan độc lập mà lại tháo rã ra?”.

Ngoài ra, ông Ngầu cũng có đơn tường trình gửi UBND P.10, Q.11 và CT PHT chứng minh lượng nước tiêu thụ ổn định, không có dấu hiệu tăng giảm bất thường trong suốt thời gian từ khi gia đình ông ký hợp đồng (năm 2008) đến khi CT tháo gỡ đồng hồ nước (cuối tháng 12/2012).

Cụ thể, theo hóa đơn của đơn vị cấp nước, hộ gia đình ông đóng ổn định lượng nước tiêu thụ từ 150-190m3 /tháng. Số nước này, ngoài gia đình ông gồm ba người sử dụng còn có 14 phòng cho thuê, chủ yếu là khách thuê gia đình, ở dài hạn, dao động từ 40-47 người. Cũng theo ông Ngầu, CT đã cắt nước của hộ ông từ đó đến nay khiến ông và các hộ thuê trọ phải câu nhờ với giá nước gần 20.000đ/m3.

Hơn năm năm qua, gia đình ông Ngầu không được cấp nước.

Đơn vị cấp nước Công ty Phú Hòa Tân cho biết, những năm qua đã mời ông Ngầu lên làm việc nhiều lần nhưng chưa đạt được thỏa thuận do ông Ngầu không thừa nhận ăn cắp nước. “Nếu ông Ngầu nhận lỗi, chúng tôi có thể xem xét lại mức phạt để cân đối hợp lý” đại diện đơn vị  cấp nước nói.

Câu hỏi gửi anh Hùng:

1. Việc nhân viên Công ty nước Phú Hòa Tân lập biên bản ngưng cấp nước với ông Ngầu vậy có đúng không ?

Theo tôi khi chưa có bản án/quyết định/bằng chứng cụ thể khách hàng vi phạm hợp đồng sử dụng nước mà tự nhiên đơn phương ngưng cung cấp nước là không phù hợp vừa gây cản trở, khó khăn đến cuộc sống khách hàng và nhiều hộ dân nơi đây. Việc làm này không những không thấu tình đạt lý mà dường như không phù hợp trong cách xử sử của công ty Phú Hòa Tân.

2. Việc công ty Phú Hòa Tân chỉ lập biên bản nói ông Lý Ngầu ăn cắp nước nhưng không xác định được thiệt hại mà đã ngưng cấp nước và ra “án phạt” cho ông Ngầu có đúng hay không ?

Theo quy định để nói ai ăn cắp nước thì phải cơ quan điều tra mới đủ thẩm quyền. Việc chứng minh thiệt hại phải thực tế, cụ thể chứ nói không là không có căn cứ. Việc ngưng như vậy là chưa bảo đảm quyền lợi cho khách hàng.

3. Luật sư có ý kiến gì về mức phạt hơn 300 triệu đồng mà Công ty nước Phú Hòa Tân đưa ra với ông Ngầu ?

Cách tính thiệt hại và yêu cầu ông Ngầu đóng phát 300 triệu là không có cơ sở pháp lý vì không có bằng chứng cụ thể ông Ngầu gian lận sử dụng nước. Không chứng minh được thiệt hại thực tế bằng chứng cứ cụ thể nên không thể phạt ông Ngầu.

4. Ông Ngầu có hóa đơn chứng minh lượng nước tiêu thụ ổn định, không có dấu hiệu tăng giảm bất thường trong suốt thời gian từ khi gia đình ông ký hợp đồng (năm 2008) đến khi CT tháo gỡ đồng hồ nước (cuối tháng 12/2012) nhưng công ty vẫn xem xét yếu tố này mà vẫn yêu cầu ông “nhận lỗi” có bảo đảm khách quan hay không ?

Đây là bằng chứng cụ thể chứng minh ông Ngầu khó gian lận nước vì chứng từ hóa đơn này là hợp lý và phù hợp thực tế. Cách tính nước áp dụng hóa đơn trung bình cũng là căn cứ tính bình quân khi đồng hồ bị hư…nên việc công ty bắt nhận lỗi là không có căn cứ. Việc kiểm tra đồng hồ nước định kỳ là của cơ quan nước sao lại đổ lỗi cho khách hàng. Công ty lắp đồng hồ ch khách thì có trách nhiệm về chiếc đồng hồ của mình.

5. Theo luật sư, không thỏa thuận, làm việc được với công ty nước, ông Ngầu có thể làm gì để bảo đảm quyền lợi của mình ?

Ông Ngầu có thể làm đơn khiếu nại về quyết định cúp nước cũng như yêu cầu bồi thường của công ty nước. Thậm chí ông được quyền khởi kiện ra tòa án về hành vi mà công ty đơn phương ngưng cung cấp nước nếu thấy không có căn cứ xâm hại đến quyền lợi của ông Ngầu.

 Link báo đầy đủ: http://www.phunuonline.com.vn/thoi-su/5-nam-keu-cuu-cu-gia-van-phai-xai-nuoc-ke-121636/

Gửi anh Hùng: Vụ bị phạt hơn 300 triệu tiền nước

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Trần Vĩnh Tuyến vừa có ý kiến chỉ đạo Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn TNHH Một thành viên kiểm tra, báo cáo về một gia đình ở Q.11 bị cắt nước suốt hơn 5 năm. “Đối tượng” bị cắt nước là gia đình một cụ ông năm nay đã 75 tuổi. Vụ việc đã kéo dài nhiều năm, cơ quan chức năng thành phố, báo chí đã từng vào cuộc nhưng đến nay gia đình cụ ông vẫn “khát nước”.

Ông Lý Ngầu trình bày : Vào ngày 26/12/2012, đến hạn thay đồng hồ nước định kỳ 5 năm/lần, nhân viên của Công ty (CT) cổ phần cấp nước Phú Hòa Tân (PHT) đến nhà ông để thay. Khi tháo đồng hồ, nhân viên CT nói cầu chì giả và cho là gia đình ông đã trộm cắp nước.

Ông yêu cầu mời tổ trưởng và công an khu vực đến chứng kiến, lắp đặt đồng hồ lại như cũ và gọi điện về CT cho nhân viên kỹ thuật đến giải quyết. Nhân viên kỹ thuật của CT đã đến kiểm tra, tháo đồng hồ nước ra lần 2, sau đó rã toàn bộ đồng hồ nước.

Phía CT đã lập biên bản có sự chứng kiến của tổ trưởng và công an khu vực với nội dung: “Chì niêm phong mặt đồng hồ là dây đôi xoắn, không đúng dây chì; năm sản xuất, không đúng mã số chì của CT; khi tháo rời để kiểm tra bên trong hộp số và bộ phận nhông quay cánh quạt, xác định chong chóng cánh quạt có dấu mài mòn ít, cạnh hộp phun bị bể 40%, có sự tác động đến đồng hồ nước để gian lận”. Cho là khách hàng vi phạm, CT đã cắt nước và thu hồi đồng hồ nước đã niêm phong.

Ngày 27/12/2012, CT mời ông Ngầu lên lập biên bản xác định lại những nội dung trong biên bản trước đó. Tại biên bản này, ông Ngầu một lần nữa cho rằng mình không hề vi phạm như CT quy kết, đồng thời gửi kèm đơn xin cứu xét, trong đó khẳng định mình không hề can thiệp vào đồng hồ nước.

Ngày 4/1/2013, CT gửi thông báo cho ông Ngầu, yêu cầu bồi thường thiệt hại trong 49 tháng, với định mức 8m3 /người/tháng, nhân với 50 người (tổng số người sử dụng nước, bao gồm gia đình ông và những người thuê trọ).

Giá nước truy thu tính theo giá nước sạch cao nhất là 17.480đ/ m3 (chưa bao gồm thuế GTGT và phí bảo vệ môi trường), tổng cộng 342 triệu đồng. Đến ngày 8/5/2013, CT cho tính lại với mức truy thu theo đơn giá nước hằng năm, buộc ông đóng hơn 274 triệu đồng.

 
Thiếu cơ sở xác định "trộm nước"? 

Không đồng tình, ông Ngầu đã khiếu nại, cho rằng hiện trường kiểm tra đồng hồ nước “có vấn đề”. Ông nói: “Họ đến kiểm tra cấp tập, sau đó cho người tháo rã đồng hồ nước.

Đồng hồ nước là do ngành cấp nước cung cấp, niêm chì cũng do ngành cấp nước làm, hàng tháng đều có nhân viên cấp nước đến ghi chỉ số để thu tiền nước. Trách nhiệm của họ là phải kiểm tra định kỳ, sao để đến 5 năm mới phát hiện, rồi không niêm phong nguyên hiện trạng đồng hồ để gửi đi kiểm định tại một cơ quan độc lập mà lại tháo rã ra?”.

Ngoài ra, ông Ngầu cũng có đơn tường trình gửi UBND P.10, Q.11 và CT PHT chứng minh lượng nước tiêu thụ ổn định, không có dấu hiệu tăng giảm bất thường trong suốt thời gian từ khi gia đình ông ký hợp đồng (năm 2008) đến khi CT tháo gỡ đồng hồ nước (cuối tháng 12/2012).

Cụ thể, theo hóa đơn của đơn vị cấp nước, hộ gia đình ông đóng ổn định lượng nước tiêu thụ từ 150-190m3 /tháng. Số nước này, ngoài gia đình ông gồm ba người sử dụng còn có 14 phòng cho thuê, chủ yếu là khách thuê gia đình, ở dài hạn, dao động từ 40-47 người. Cũng theo ông Ngầu, CT đã cắt nước của hộ ông từ đó đến nay khiến ông và các hộ thuê trọ phải câu nhờ với giá nước gần 20.000đ/m3.

Hơn năm năm qua, gia đình ông Ngầu không được cấp nước.

Đơn vị cấp nước Công ty Phú Hòa Tân cho biết, những năm qua đã mời ông Ngầu lên làm việc nhiều lần nhưng chưa đạt được thỏa thuận do ông Ngầu không thừa nhận ăn cắp nước. “Nếu ông Ngầu nhận lỗi, chúng tôi có thể xem xét lại mức phạt để cân đối hợp lý” đại diện đơn vị  cấp nước nói.

Câu hỏi gửi anh Hùng:

1. Việc nhân viên Công ty nước Phú Hòa Tân lập biên bản ngưng cấp nước với ông Ngầu vậy có đúng không ?

Theo tôi khi chưa có bản án/quyết định/bằng chứng cụ thể khách hàng vi phạm hợp đồng sử dụng nước mà tự nhiên đơn phương ngưng cung cấp nước là không phù hợp vừa gây cản trở, khó khăn đến cuộc sống khách hàng và nhiều hộ dân nơi đây. Việc làm này không những không thấu tình đạt lý mà dường như không phù hợp trong cách xử sử của công ty Phú Hòa Tân.

2. Việc công ty Phú Hòa Tân chỉ lập biên bản nói ông Lý Ngầu ăn cắp nước nhưng không xác định được thiệt hại mà đã ngưng cấp nước và ra “án phạt” cho ông Ngầu có đúng hay không ?

Theo quy định để nói ai ăn cắp nước thì phải cơ quan điều tra mới đủ thẩm quyền. Việc chứng minh thiệt hại phải thực tế, cụ thể chứ nói không là không có căn cứ. Việc ngưng như vậy là chưa bảo đảm quyền lợi cho khách hàng.

3. Luật sư có ý kiến gì về mức phạt hơn 300 triệu đồng mà Công ty nước Phú Hòa Tân đưa ra với ông Ngầu ?

Cách tính thiệt hại và yêu cầu ông Ngầu đóng phát 300 triệu là không có cơ sở pháp lý vì không có bằng chứng cụ thể ông Ngầu gian lận sử dụng nước. Không chứng minh được thiệt hại thực tế bằng chứng cứ cụ thể nên không thể phạt ông Ngầu.

4. Ông Ngầu có hóa đơn chứng minh lượng nước tiêu thụ ổn định, không có dấu hiệu tăng giảm bất thường trong suốt thời gian từ khi gia đình ông ký hợp đồng (năm 2008) đến khi CT tháo gỡ đồng hồ nước (cuối tháng 12/2012) nhưng công ty vẫn xem xét yếu tố này mà vẫn yêu cầu ông “nhận lỗi” có bảo đảm khách quan hay không ?

Đây là bằng chứng cụ thể chứng minh ông Ngầu khó gian lận nước vì chứng từ hóa đơn này là hợp lý và phù hợp thực tế. Cách tính nước áp dụng hóa đơn trung bình cũng là căn cứ tính bình quân khi đồng hồ bị hư…nên việc công ty bắt nhận lỗi là không có căn cứ. Việc kiểm tra đồng hồ nước định kỳ là của cơ quan nước sao lại đổ lỗi cho khách hàng. Công ty lắp đồng hồ ch khách thì có trách nhiệm về chiếc đồng hồ của mình.

5. Theo luật sư, không thỏa thuận, làm việc được với công ty nước, ông Ngầu có thể làm gì để bảo đảm quyền lợi của mình ?

Ông Ngầu có thể làm đơn khiếu nại về quyết định cúp nước cũng như yêu cầu bồi thường của công ty nước. Thậm chí ông được quyền khởi kiện ra tòa án về hành vi mà công ty đơn phương ngưng cung cấp nước nếu thấy không có căn cứ xâm hại đến quyền lợi của ông Ngầu.

 Link báo đầy đủ: http://www.phunuonline.com.vn/thoi-su/5-nam-keu-cuu-cu-gia-van-phai-xai-nuoc-ke-121636/

Gửi anh Hùng: Vụ bị phạt hơn 300 triệu tiền nước

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Trần Vĩnh Tuyến vừa có ý kiến chỉ đạo Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn TNHH Một thành viên kiểm tra, báo cáo về một gia đình ở Q.11 bị cắt nước suốt hơn 5 năm. “Đối tượng” bị cắt nước là gia đình một cụ ông năm nay đã 75 tuổi. Vụ việc đã kéo dài nhiều năm, cơ quan chức năng thành phố, báo chí đã từng vào cuộc nhưng đến nay gia đình cụ ông vẫn “khát nước”.

Ông Lý Ngầu trình bày : Vào ngày 26/12/2012, đến hạn thay đồng hồ nước định kỳ 5 năm/lần, nhân viên của Công ty (CT) cổ phần cấp nước Phú Hòa Tân (PHT) đến nhà ông để thay. Khi tháo đồng hồ, nhân viên CT nói cầu chì giả và cho là gia đình ông đã trộm cắp nước.

Ông yêu cầu mời tổ trưởng và công an khu vực đến chứng kiến, lắp đặt đồng hồ lại như cũ và gọi điện về CT cho nhân viên kỹ thuật đến giải quyết. Nhân viên kỹ thuật của CT đã đến kiểm tra, tháo đồng hồ nước ra lần 2, sau đó rã toàn bộ đồng hồ nước.

Phía CT đã lập biên bản có sự chứng kiến của tổ trưởng và công an khu vực với nội dung: “Chì niêm phong mặt đồng hồ là dây đôi xoắn, không đúng dây chì; năm sản xuất, không đúng mã số chì của CT; khi tháo rời để kiểm tra bên trong hộp số và bộ phận nhông quay cánh quạt, xác định chong chóng cánh quạt có dấu mài mòn ít, cạnh hộp phun bị bể 40%, có sự tác động đến đồng hồ nước để gian lận”. Cho là khách hàng vi phạm, CT đã cắt nước và thu hồi đồng hồ nước đã niêm phong.

Ngày 27/12/2012, CT mời ông Ngầu lên lập biên bản xác định lại những nội dung trong biên bản trước đó. Tại biên bản này, ông Ngầu một lần nữa cho rằng mình không hề vi phạm như CT quy kết, đồng thời gửi kèm đơn xin cứu xét, trong đó khẳng định mình không hề can thiệp vào đồng hồ nước.

Ngày 4/1/2013, CT gửi thông báo cho ông Ngầu, yêu cầu bồi thường thiệt hại trong 49 tháng, với định mức 8m3 /người/tháng, nhân với 50 người (tổng số người sử dụng nước, bao gồm gia đình ông và những người thuê trọ).

Giá nước truy thu tính theo giá nước sạch cao nhất là 17.480đ/ m3 (chưa bao gồm thuế GTGT và phí bảo vệ môi trường), tổng cộng 342 triệu đồng. Đến ngày 8/5/2013, CT cho tính lại với mức truy thu theo đơn giá nước hằng năm, buộc ông đóng hơn 274 triệu đồng.

 
Thiếu cơ sở xác định "trộm nước"? 

Không đồng tình, ông Ngầu đã khiếu nại, cho rằng hiện trường kiểm tra đồng hồ nước “có vấn đề”. Ông nói: “Họ đến kiểm tra cấp tập, sau đó cho người tháo rã đồng hồ nước.

Đồng hồ nước là do ngành cấp nước cung cấp, niêm chì cũng do ngành cấp nước làm, hàng tháng đều có nhân viên cấp nước đến ghi chỉ số để thu tiền nước. Trách nhiệm của họ là phải kiểm tra định kỳ, sao để đến 5 năm mới phát hiện, rồi không niêm phong nguyên hiện trạng đồng hồ để gửi đi kiểm định tại một cơ quan độc lập mà lại tháo rã ra?”.

Ngoài ra, ông Ngầu cũng có đơn tường trình gửi UBND P.10, Q.11 và CT PHT chứng minh lượng nước tiêu thụ ổn định, không có dấu hiệu tăng giảm bất thường trong suốt thời gian từ khi gia đình ông ký hợp đồng (năm 2008) đến khi CT tháo gỡ đồng hồ nước (cuối tháng 12/2012).

Cụ thể, theo hóa đơn của đơn vị cấp nước, hộ gia đình ông đóng ổn định lượng nước tiêu thụ từ 150-190m3 /tháng. Số nước này, ngoài gia đình ông gồm ba người sử dụng còn có 14 phòng cho thuê, chủ yếu là khách thuê gia đình, ở dài hạn, dao động từ 40-47 người. Cũng theo ông Ngầu, CT đã cắt nước của hộ ông từ đó đến nay khiến ông và các hộ thuê trọ phải câu nhờ với giá nước gần 20.000đ/m3.

Hơn năm năm qua, gia đình ông Ngầu không được cấp nước.

Đơn vị cấp nước Công ty Phú Hòa Tân cho biết, những năm qua đã mời ông Ngầu lên làm việc nhiều lần nhưng chưa đạt được thỏa thuận do ông Ngầu không thừa nhận ăn cắp nước. “Nếu ông Ngầu nhận lỗi, chúng tôi có thể xem xét lại mức phạt để cân đối hợp lý” đại diện đơn vị  cấp nước nói.

Câu hỏi gửi anh Hùng:

1. Việc nhân viên Công ty nước Phú Hòa Tân lập biên bản ngưng cấp nước với ông Ngầu vậy có đúng không ?

Theo tôi khi chưa có bản án/quyết định/bằng chứng cụ thể khách hàng vi phạm hợp đồng sử dụng nước mà tự nhiên đơn phương ngưng cung cấp nước là không phù hợp vừa gây cản trở, khó khăn đến cuộc sống khách hàng và nhiều hộ dân nơi đây. Việc làm này không những không thấu tình đạt lý mà dường như không phù hợp trong cách xử sử của công ty Phú Hòa Tân.

2. Việc công ty Phú Hòa Tân chỉ lập biên bản nói ông Lý Ngầu ăn cắp nước nhưng không xác định được thiệt hại mà đã ngưng cấp nước và ra “án phạt” cho ông Ngầu có đúng hay không ?

Theo quy định để nói ai ăn cắp nước thì phải cơ quan điều tra mới đủ thẩm quyền. Việc chứng minh thiệt hại phải thực tế, cụ thể chứ nói không là không có căn cứ. Việc ngưng như vậy là chưa bảo đảm quyền lợi cho khách hàng.

3. Luật sư có ý kiến gì về mức phạt hơn 300 triệu đồng mà Công ty nước Phú Hòa Tân đưa ra với ông Ngầu ?

Cách tính thiệt hại và yêu cầu ông Ngầu đóng phát 300 triệu là không có cơ sở pháp lý vì không có bằng chứng cụ thể ông Ngầu gian lận sử dụng nước. Không chứng minh được thiệt hại thực tế bằng chứng cứ cụ thể nên không thể phạt ông Ngầu.

4. Ông Ngầu có hóa đơn chứng minh lượng nước tiêu thụ ổn định, không có dấu hiệu tăng giảm bất thường trong suốt thời gian từ khi gia đình ông ký hợp đồng (năm 2008) đến khi CT tháo gỡ đồng hồ nước (cuối tháng 12/2012) nhưng công ty vẫn xem xét yếu tố này mà vẫn yêu cầu ông “nhận lỗi” có bảo đảm khách quan hay không ?

Đây là bằng chứng cụ thể chứng minh ông Ngầu khó gian lận nước vì chứng từ hóa đơn này là hợp lý và phù hợp thực tế. Cách tính nước áp dụng hóa đơn trung bình cũng là căn cứ tính bình quân khi đồng hồ bị hư…nên việc công ty bắt nhận lỗi là không có căn cứ. Việc kiểm tra đồng hồ nước định kỳ là của cơ quan nước sao lại đổ lỗi cho khách hàng. Công ty lắp đồng hồ ch khách thì có trách nhiệm về chiếc đồng hồ của mình.

5. Theo luật sư, không thỏa thuận, làm việc được với công ty nước, ông Ngầu có thể làm gì để bảo đảm quyền lợi của mình ?

Ông Ngầu có thể làm đơn khiếu nại về quyết định cúp nước cũng như yêu cầu bồi thường của công ty nước. Thậm chí ông được quyền khởi kiện ra tòa án về hành vi mà công ty đơn phương ngưng cung cấp nước nếu thấy không có căn cứ xâm hại đến quyền lợi của ông Ngầu.

 Link báo đầy đủ: http://www.phunuonline.com.vn/thoi-su/5-nam-keu-cuu-cu-gia-van-phai-xai-nuoc-ke-121636/

Gửi anh Hùng: Vụ bị phạt hơn 300 triệu tiền nước

Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Trần Vĩnh Tuyến vừa có ý kiến chỉ đạo Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn TNHH Một thành viên kiểm tra, báo cáo về một gia đình ở Q.11 bị cắt nước suốt hơn 5 năm. “Đối tượng” bị cắt nước là gia đình một cụ ông năm nay đã 75 tuổi. Vụ việc đã kéo dài nhiều năm, cơ quan chức năng thành phố, báo chí đã từng vào cuộc nhưng đến nay gia đình cụ ông vẫn “khát nước”.

Ông Lý Ngầu trình bày : Vào ngày 26/12/2012, đến hạn thay đồng hồ nước định kỳ 5 năm/lần, nhân viên của Công ty (CT) cổ phần cấp nước Phú Hòa Tân (PHT) đến nhà ông để thay. Khi tháo đồng hồ, nhân viên CT nói cầu chì giả và cho là gia đình ông đã trộm cắp nước.

Ông yêu cầu mời tổ trưởng và công an khu vực đến chứng kiến, lắp đặt đồng hồ lại như cũ và gọi điện về CT cho nhân viên kỹ thuật đến giải quyết. Nhân viên kỹ thuật của CT đã đến kiểm tra, tháo đồng hồ nước ra lần 2, sau đó rã toàn bộ đồng hồ nước.

Phía CT đã lập biên bản có sự chứng kiến của tổ trưởng và công an khu vực với nội dung: “Chì niêm phong mặt đồng hồ là dây đôi xoắn, không đúng dây chì; năm sản xuất, không đúng mã số chì của CT; khi tháo rời để kiểm tra bên trong hộp số và bộ phận nhông quay cánh quạt, xác định chong chóng cánh quạt có dấu mài mòn ít, cạnh hộp phun bị bể 40%, có sự tác động đến đồng hồ nước để gian lận”. Cho là khách hàng vi phạm, CT đã cắt nước và thu hồi đồng hồ nước đã niêm phong.

Ngày 27/12/2012, CT mời ông Ngầu lên lập biên bản xác định lại những nội dung trong biên bản trước đó. Tại biên bản này, ông Ngầu một lần nữa cho rằng mình không hề vi phạm như CT quy kết, đồng thời gửi kèm đơn xin cứu xét, trong đó khẳng định mình không hề can thiệp vào đồng hồ nước.

Ngày 4/1/2013, CT gửi thông báo cho ông Ngầu, yêu cầu bồi thường thiệt hại trong 49 tháng, với định mức 8m3 /người/tháng, nhân với 50 người (tổng số người sử dụng nước, bao gồm gia đình ông và những người thuê trọ).

Giá nước truy thu tính theo giá nước sạch cao nhất là 17.480đ/ m3 (chưa bao gồm thuế GTGT và phí bảo vệ môi trường), tổng cộng 342 triệu đồng. Đến ngày 8/5/2013, CT cho tính lại với mức truy thu theo đơn giá nước hằng năm, buộc ông đóng hơn 274 triệu đồng.

 
Thiếu cơ sở xác định "trộm nước"? 

Không đồng tình, ông Ngầu đã khiếu nại, cho rằng hiện trường kiểm tra đồng hồ nước “có vấn đề”. Ông nói: “Họ đến kiểm tra cấp tập, sau đó cho người tháo rã đồng hồ nước.

Đồng hồ nước là do ngành cấp nước cung cấp, niêm chì cũng do ngành cấp nước làm, hàng tháng đều có nhân viên cấp nước đến ghi chỉ số để thu tiền nước. Trách nhiệm của họ là phải kiểm tra định kỳ, sao để đến 5 năm mới phát hiện, rồi không niêm phong nguyên hiện trạng đồng hồ để gửi đi kiểm định tại một cơ quan độc lập mà lại tháo rã ra?”.

Ngoài ra, ông Ngầu cũng có đơn tường trình gửi UBND P.10, Q.11 và CT PHT chứng minh lượng nước tiêu thụ ổn định, không có dấu hiệu tăng giảm bất thường trong suốt thời gian từ khi gia đình ông ký hợp đồng (năm 2008) đến khi CT tháo gỡ đồng hồ nước (cuối tháng 12/2012).

Cụ thể, theo hóa đơn của đơn vị cấp nước, hộ gia đình ông đóng ổn định lượng nước tiêu thụ từ 150-190m3 /tháng. Số nước này, ngoài gia đình ông gồm ba người sử dụng còn có 14 phòng cho thuê, chủ yếu là khách thuê gia đình, ở dài hạn, dao động từ 40-47 người. Cũng theo ông Ngầu, CT đã cắt nước của hộ ông từ đó đến nay khiến ông và các hộ thuê trọ phải câu nhờ với giá nước gần 20.000đ/m3.

Hơn năm năm qua, gia đình ông Ngầu không được cấp nước.

Đơn vị cấp nước Công ty Phú Hòa Tân cho biết, những năm qua đã mời ông Ngầu lên làm việc nhiều lần nhưng chưa đạt được thỏa thuận do ông Ngầu không thừa nhận ăn cắp nước. “Nếu ông Ngầu nhận lỗi, chúng tôi có thể xem xét lại mức phạt để cân đối hợp lý” đại diện đơn vị  cấp nước nói.

Câu hỏi gửi anh Hùng:

1. Việc nhân viên Công ty nước Phú Hòa Tân lập biên bản ngưng cấp nước với ông Ngầu vậy có đúng không ?

Theo tôi khi chưa có bản án/quyết định/bằng chứng cụ thể khách hàng vi phạm hợp đồng sử dụng nước mà tự nhiên đơn phương ngưng cung cấp nước là không phù hợp vừa gây cản trở, khó khăn đến cuộc sống khách hàng và nhiều hộ dân nơi đây. Việc làm này không những không thấu tình đạt lý mà dường như không phù hợp trong cách xử sử của công ty Phú Hòa Tân.

2. Việc công ty Phú Hòa Tân chỉ lập biên bản nói ông Lý Ngầu ăn cắp nước nhưng không xác định được thiệt hại mà đã ngưng cấp nước và ra “án phạt” cho ông Ngầu có đúng hay không ?

Theo quy định để nói ai ăn cắp nước thì phải cơ quan điều tra mới đủ thẩm quyền. Việc chứng minh thiệt hại phải thực tế, cụ thể chứ nói không là không có căn cứ. Việc ngưng như vậy là chưa bảo đảm quyền lợi cho khách hàng.

3. Luật sư có ý kiến gì về mức phạt hơn 300 triệu đồng mà Công ty nước Phú Hòa Tân đưa ra với ông Ngầu ?

Cách tính thiệt hại và yêu cầu ông Ngầu đóng phát 300 triệu là không có cơ sở pháp lý vì không có bằng chứng cụ thể ông Ngầu gian lận sử dụng nước. Không chứng minh được thiệt hại thực tế bằng chứng cứ cụ thể nên không thể phạt ông Ngầu.

4. Ông Ngầu có hóa đơn chứng minh lượng nước tiêu thụ ổn định, không có dấu hiệu tăng giảm bất thường trong suốt thời gian từ khi gia đình ông ký hợp đồng (năm 2008) đến khi CT tháo gỡ đồng hồ nước (cuối tháng 12/2012) nhưng công ty vẫn xem xét yếu tố này mà vẫn yêu cầu ông “nhận lỗi” có bảo đảm khách quan hay không ?

Đây là bằng chứng cụ thể chứng minh ông Ngầu khó gian lận nước vì chứng từ hóa đơn này là hợp lý và phù hợp thực tế. Cách tính nước áp dụng hóa đơn trung bình cũng là căn cứ tính bình quân khi đồng hồ bị hư…nên việc công ty bắt nhận lỗi là không có căn cứ. Việc kiểm tra đồng hồ nước định kỳ là của cơ quan nước sao lại đổ lỗi cho khách hàng. Công ty lắp đồng hồ ch khách thì có trách nhiệm về chiếc đồng hồ của mình.

5. Theo luật sư, không thỏa thuận, làm việc được với công ty nước, ông Ngầu có thể làm gì để bảo đảm quyền lợi của mình ?

Ông Ngầu có thể làm đơn khiếu nại về quyết định cúp nước cũng như yêu cầu bồi thường của công ty nước. Thậm chí ông được quyền khởi kiện ra tòa án về hành vi mà công ty đơn phương ngưng cung cấp nước nếu thấy không có căn cứ xâm hại đến quyền lợi của ông Ngầu.

 Link báo đầy đủ: http://www.phunuonline.com.vn/thoi-su/5-nam-keu-cuu-cu-gia-van-phai-xai-nuoc-ke-121636/

Vụ 1.709 mâm điện không hóa đơn: Công ty Minh Khoa đã lừa dối khách hàng

 
Thứ bảy, 27/01/2018, 14:14

((NTD) – Trước thông tin hơn 1.700 sản phẩm mâm điện không hóa đơn chứng từ bị lực lượng chức năng phát hiện, tạm giữ tại Công ty TNHH cơ điện Minh Khoa – Chủ của nhãn hiệu nồi cơm điện Kim Cương. Luật sư Trần Minh Hùng, Trưởng văn phòng luật sư Gia Đình, Đoàn luật sư TP.HCM cho rằng công ty Minh Khoa đã lừa dối khách hàng và cần có hình thức xử lý nghiêm minh.

 
TIN LIÊN QUAN

Luật sư Trần Minh Hùng cho biết, theo thông tin báo chí, công ty thừa nhận đã sử dụng hàng hóa không hóa đơn, chứng từ thì tôi tạm thời đánh giá mức độ hậu quả nghiêm trọng. Nếu diễn ra thời gian dài, bán số lượng và thu lợi đặc biệt lớn, thực hiện tại nhiều cửa hàng thì ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến uy tín ngành này. Do vậy, hành vi của họ có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự, cụ thể tội Lừa dối khách hàng. Tuy nhiên, để khẳng định có cấu thành tội phạm hay không, cần chờ kết luận của cơ quan điều tra có thẩm quyền. Theo tôi, việc công ty Minh Khoa thừa nhận việc có nhập mâm điện Trung Quốc (“bộ não” của nồi cơm điện) hàng trôi nổi, không hóa đơn, chứng từ về để gắn mác hàng mình là không đúng quy định của pháp luật.

Như vậy, việc này các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần phải điều tra làm rõ thêm để xác định có dấu hiệu của việc buôn bán, sản xuất hàng giả hay không để có biện pháp xử lý thích hợp. Trong trường hợp sau khi các cơ quan chức năng kết luận vụ việc, căn cứ vào mức độ, tính chất hậu quả của hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, thì người có thẩm quyền của công ty có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm được quy định, hướng dẫn tại Điều 190 Bộ Luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015, cụ thể như sau: Người nào sản xuất, buôn bán hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ Luật hình sự 2015, thì bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm; hoặc phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ Luật hình sự 2015, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;  Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 1 năm đến 3 năm.

unnamed-1341
Biên bản sự việc 

Thậm chí, về việc khi vận chuyển hàng hóa mà nhân viên không xuất được hóa đơn chứng từ chứng minh được nguồn gốc số hàng hóa này, thì có thể bị coi là hàng hóa nhập lậu và sẽ bị xử phạt về hành vi này, cụ thể mức xử phạt quy định tại Điều 17 Nghị định 185/2013/NĐ-CP. Đồng thời theo quy định tại khoản 5 Điều 44 Nghị định 109/2013/NĐ-CP nêu rõ:” Hàng hóa vận chuyển trên đường không có hóa đơn, chứng từ hợp pháp khi cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, phát hiện hành vi vi phạm thì ngoài việc bị xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn theo quy định tại Nghị định này, người nộp thuế còn bị xử phạt về hành vi trốn thuế theo quy định của Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành".

Như vậy, ngoài việc bị xử lý vi phạm hành chính, trường hợp này còn có thể sẽ bị xử phạt về hành vi trốn thuế. Nếu cơ quan có thẩm quyền kiểm tra tại thời điểm đó, mà không xuất trình được hóa đơn thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, theo đó, dù sau khi bị xử phạt công ty có hóa đơn chứng từ thì vẫn sẽ bị tịch thu hàng hóa và xử phạt hành chính theo quy định.

Ngoài ra, theo quy định thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà không thuộc trường hợp giải trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 61 của Luật này, thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể từ ngày lập biên bản.

Vì vậy, trong tường hợp này, từ lúc lập biên bản là 18/12/2017 đến nay đã là 27/1/2018, tức đã quá 30 ngày mà cơ quan chức năng vẫn chưa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là chưa bảo đảm đúng quy định. Cơ quan chức năng cần có biện pháp xử lý nghiêm.

Trước đó, Đội Quản lý thị trường huyện Củ Chi TP.HCM tiến hành kiểm tra Công ty TNHH Cơ điện Minh Khoa số 258, ấp 12 Tân Thạnh Đông, Củ Chi, TP.HCM và phát hiện hàng ngàn sản phẩm là mâm điện các loại không có hóa đơn chứng từ, không nguồn gốc xuất xứ.

Tại đây, Đội Quản lý thị trường Củ Chi cùng ông Tạ Anh Tuấn (Trưởng phòng kinh doanh công ty Minh Khoa) tiến hành đối chiếu toàn bộ hóa đơn, bảng tổng hợp nhập xuất tồn mà công ty Minh Khoa đã xuất trình với số lượng thực tế hàng hóa. Theo đó, đối với mâm điện xuất xứ Trung Quốc, loại 220W - 1.300W, kết quả đối chiếu số lượng tồn đến thời điểm kiểm tra theo thực tế hóa đơn, chứng từ đã xuất trình là 51 cái nhưng số lượng thực tế bị tạm giữ là 1.760 cái, chênh lệch 1.709 cái. Ông Tạ Anh Tuấn trình bày và thừa nhận: Số hàng hóa là 1.709 cái mâm điện xuất xứ Trung Quốc, sự chênh lệch nêu trên là do công ty Minh Khoa thiếu linh kiện nên mua trôi nổi trên thị trường về để sản xuất, do đó, số hàng hóa này không có hóa đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định.

 Cao Tuấn – Thùy Trang

Quận 6, TP.HCM:

Nhọc nhằn chuyện tranh chấp “hẻm chung”

Cho rằng hàng xóm xây dựng lấn chiếm hẻm chung, bà Phát làm đơn khiếu nại đến cơ quan chức năng. Địa chính ở phường đã hòa giải, lập biên bản, yêu cầu dừng thi công công trình. Tuy nhiên, sau đó, công trình này vẫn được tiếp tục được thi công vì “xây dựng đúng giấy phép”. Cho rằng, vụ việc có nhiều điểm mập mờ nên bà Phát khởi kiện.

Hẻm chung hay đất riêng ?

Bà Dương Thị Hoài Phát (ngụ số nhà 401A/1đường Hậu Giang, Phường 11, Quận 6, TP.HCM) cho biết, căn nhà bà đang sinh sống có từ rất lâu, là tài sản của bố mẹ để lại, được cấp Giấy phép hợp thức hóa chủ quyền nhà cho bà vào năm 1987. Giữa căn nhà bà Phát và căn nhà số 401A hiện do ông P.B.C làm chủ có một khoảng đất rộng nửa mét, đã tồn tại từ rất lâu, qua nhiều đời chủ sở hữu, được bà Phát xác định là hẻm chung.

Mọi chuyện rắc rối xảy ra từ khoảng tháng 11/2017, khi ông P.B.C xây dựng căn nhà lấn trên khoảng đất rộng 0,5 m mà bà Phát cho rằng là hẻm chung. Theo bà Phát, khi thực hiện công trình trên đã làm bể tấm đan cửa sổ nhà tôi, gây ảnh hưởng đến móng và kết cấu căn nhà.

“Con hẻm trên đã có từ rất lâu, qua đến bốn đời chủ, không ai lấn chiếm con hẻm đó cả. Tuy nhiên, đến khi ông C. sở hữu lại xây dựng trên con hẻm. Về lâu dài, con hẻm bị lấn chiếm ảnh hưởng rất lớn đến căn nhà của tôi, đồng thời mất con hẻm cũng gây nguy hiểm cho gia đình tôi mỗi khi có hỏa hoạn” bà Phát cho hay.

Sau khi xảy ra sự việc trên, bà Phát đã trình báo với cơ quan chức năng, địa chính xây dựng UBND P. 11, Q.6 đã lập biên bản làm việc ngày 14/11/2017, biên bản hòa giải ngày 16/11/2017. Trong các biên bản này, địa diện chính quyền địa phương yêu cầu chủ đầu tư và đơn vị thi công ngưng công trình ngày đồng ý chờ giải quyết theo đúng quy định pháp luật.

Theo tài liệu chúng tôi thu thập được, đại diện Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Q.6 xác định, giữa căn nhà 401A và 401A/1 có một khoảng hở và khoảng hở này đã được cấp giấy chứng nhận cho nhà 401A hiện do ông C. đứng tên. Ngoài ra, vào năm 2012, mẹ bà Phát và ông H. (chủ trước của căn nhà 401A) đã ký một thỏa thuận, phần đất trống giữa hai nhà nói trên do ông H. sử hữu.

Tại biên bản hòa giải của UBND P.11, Q.6, ông C. cho rằng, ông là người mua lại căn nhà có chủ quyền hợp lệ, được cấp phép xây dựng, việc xây dựng là đúng theo ranh đất.

Về vấn đề này, bà Phát cho rằng, con hẻm chung đã có từ lâu, qua rất nhiều đời chủ. Vậy, việc cấp chứng nhận quyền sử dụng cho một bên là không thỏa đáng. Cần phải kiểm tra lại hồ sơ cấp chủ quyền trước đây để làm rõ việc cấp phép có hợp lý hay không ? Ngoài ra, mẹ bà Phát ký thỏa thuận chấp nhận phần đất giữa hai căn nhà thuộc quyền sở hữu của ông H. vào năm 2012, khi đó bà đã 85 tuổi, không còn minh mẫn nên cần phải xác định lại giá trị pháp lý của thỏa thuận này.

“Lúc đó mẹ tôi đã 85 tuổi, khi ký giấy không có chúng tôi đi theo. Nếu như cơ quan chức năng dựa vào thỏa thuận nói trên để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhà bên cạnh là không thỏa đáng” bà Phát cho hay.

Bị đình chỉ vẫn xây dựng

Được biết, dù UBND P.11 đã lập các biên bản yêu cầu chủ công trình ngưng thi công để chờ giải quyết theo quy định của pháp luât. Tuy nhiên, chủ công trình là ông C. vẫn tiếp tục cho xây dựng. Do đó, gia đình bà Phát đã trình báo sự việc lên Thanh tra xây dựng xử lý. 

Tại biên bản làm việc của Đội Thanh tra địa bàn Q.6 ngày 21/11, công trình thi công lắp đặt sắt, đà kiềng. Công trình có phần ranh móng phù hợp chỉ giới xây dựng đúng theo bản vẽ. Đối với phần diện tích không công nhận, không xây dựng, chủ đầu tư đã ép 4 cọc bê tông cốt thép âm dưới mặt đường. Đội Thanh tra xây dựng Q.6 đề nghị chủ đầu tư và đơn vị thi công không xây dựng trên phần diện tích này, trường hợp không chấp hành sẽ bị xử lý. Tổ kiểm tra đề nghị chủ đầu tư và đơn vị thi công tạm ngưng công trình xây dựng công trình theo nội dung biên bản hòa giải ngày 16/11/2017 tại UBND P.11 để chờ giải quyết theo quy định.

Theo bà Phát, dù đã có các biên bản yêu cầu tạm dựng công trình, nhưng sau đó phía ông C. vẫn tiếp tục cho thi công công trình hiện theo ước tính đã lên cao hơn 3,5 m nhưng không bị xử lý. Từ đó đến nay, gia đình bà P. vẫn chưa đồng ý cách xử lý của cơ quan chức năng về việc xử lý lấn chiếm hẻm chung.

Cho rằng, việc UBND Q.6 cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu con hẻm cho chủ nhà số 401A đường Hậu Giang là bất hợp lý nên bà Phát đã làm đơn khởi kiện lên Tòa án Nhân dân TPHCM yêu cầu tháo dở công trình lấn hẻm chung và bồi thường 60 triệu đồng do xây dựng lấn chiếm làm bể tấm đan cửa sổ nhà, hủy giấy chứng nhận phần cấp sai.

Theo hồ sơ cũ thì giữa hai căn nhà này có 1 khoảng hở mà trước đây nhà nước chưa công nhận cho bất kỳ bên nào. Theo quy định đây là hẻm chung mà không được ai tự định đoạt cho mình. Người nào muốn được hợp thức hóa phải được ký giáp ranh giữa các nhà bên cạnh. Vụ việc có 1 văn bản mẹ bà Phát ký nhưng không có chữ ký mà chỉ lăn tay nhưng UBND phường lại xác nhận chữ ký là mâu thuẫn, tại thời điểm ký mẹ bà Phát đã lớn tuổi 85 tuổi thì phải có người làm chứng nhưng vẫn không có ai làm chứng. Hơn nữa, tại thời điểm ký văn bản cha bà Phát đã chết, nhà đất nêu trên là của cha mẹ bà Phát để lại cho các con nên 1 mình mẹ bà Phát cũng không có quyền tự định đoạt mà phải được sự đồng ý của các con. Do vậy, mẹ bà Phát mà tự ký văn bản đó 1 mình nên về mặt pháp lý văn bản này không có giá trị.

Tôi nghĩ việc UBND Quận 6 cấp giấy chứng nhận cả phần khoảng hở cho nhà bên cạnh mà không hỏi ý kiến các anh em bà Phát, là những đồng thừa kế phần của cha bà Phát để lại là chưa đúng pháp luật. Do vậy, theo tôi cần thu hồi và hủy bỏ phần cấp giấy chứng nhận chưa đúng này.

Về việc UBND phường đã yêu cầu ngưng xây dựng khi nhà tranh chấp mà Chủ đầu tư vẫn xây dựng là vi phạm pháp luật, cần xử phạt nghiêm và khôi phục lại hiện trạng ban đầu. (LS TRẦN MINH HÙNG – ĐOÀN LS TPHCM).

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006