Luật sư tư vấn ngoại tình dẫn đến ly hôn bị xử lý thế nào?
1.Đối tượng phạm tội ngoại tình
1) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác;
2) Người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
Trước đây, tại Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn như sau: Trong Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng, “chung sống như vợ chồng” là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình.
Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...
Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm;
- Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
- Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Trường hợp chỉ bị xử lý vi phạm hành chính
Khi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP:
“1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; […]”
Trong đó, bị coi là "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" nếu trước đó người nào đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong một điều luật nói trên, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà lại:
a) Thực hiện chính hành vi đó;
b) Thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong điều luật tương ứng đó.
Theo quy định tại Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính là 6 tháng, 1 năm hoặc 2 năm tùy hình thức xử lý vi phạm hành chính được áp dụng.
Có hướng dẫn, vẫn khó xử hình sự
Thực tiễn cho thấy rất khó xử lý hình sự người ngoại tình vì rất ít khi xảy ra trường hợp người đang có vợ, có chồng mà “kết hôn được với người khác” vì pháp luật quy định thủ tục đăng ký kết hôn rất chặt chẽ, trường hợp có xảy ra thường là do làm giả giấy tờ.
Bên cạnh đó, đối với tình tiết “chung sống như vợ chồng”, các cơ quan tố tụng phải chứng minh là những người vi phạm có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung, đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ ngoài vợ ngoài chồng này.
Như vậy, đối với các quan hệ ngoại tình lén lút, không được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng thì đều “thoát” tội này.
2. Ngoại tình dẫn đến ly hôn có thể bị phạt tù?
Nội dung này được quy định tại điều 182 Bộ luật hình sự 2015 sẽ có hiệu lực từ 1/7/2016.
- Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
+ Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn.
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm :
+ Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát.
+ Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó
3. Hỏi đáp
Câu 1:
Nội dung tư vấn như sau: Gửi luật sư. Tôi và chồng kết hôn khi tôi có thai 4 tháng sau kết hôn a đối xử tốt với vợ, nhưng sau khi sinh con đc 4 tháng a và tôi không còn chung đụng chăn gói, trước đó vẫn sinh hoạt nhưng vì sau sinh chưa hồi phục nên có lẻ a không còn muốn, vì sau khi sinh a đi làm thành phố còn tôi về quê nuôi con nhỏ, mỗi tháng về 1 đến 2 ngày và mỗi lần về a đều tìm ng hoặc có ng cùng a nhậu đến say k đi nỗi mới vào ngủ sáng lại đi thành phố để đi làm nên tôi k nghĩ ngờ, đến khi con tôi 10 tháng tuổi tôi phát hiện điện thoại có tin nhắn của phụ nữ hỏi a thừa nhận và muốn ly hôn, tôi đã sự sụp và nhảy tự tử nhưng được cứu sống vậy tôi có thể kiện chồng hay người phụ nữ kia không. Và cần những bằng chứng gì để khởi kiện đc. Mong luật sư tư vấn. Cảm ơn luật sư!
Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu tư, trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:
Dựa vào thông tin bạn cho biết, bạn đã phát hiện người chồng đang có quan hệ với một người phụ nữ khác qua các tin nhắn trên điện thoại, hiện tại người chồng đã thừa nhận điều đó. Hành vi này của người chồng đã vi phạm về tình nghĩa vợ chồng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trong trường hợp này, để có thể khởi kiện hành vi của người chồng thì bạn phải có căn cứ chứng minh họ đang có hành vi chung sống với nhau như vợ chồng.
Hiện tại pháp luật hiện hành chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về vấn đề như thế nào là "chung sống với nhau như vợ chồng". Tuy nhiên, vấn đề này đã được giải thích cụ thể tại mục 3 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC như sau:
3.1. Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...
3.2. Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v...
b) Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Như vậy, trường hợp hành vi của người chồng nếu đáp ứng đủ điều kiện theo quy định nêu trên thì hành vi đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 như sau:
“Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.”.
Ngoài ra, trường hợp không có đầy đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì hành vi chung sống như vợ chồng sẽ bị xử phạt hành chính với mức từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng theo quy định tại Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP.
Về vấn đề chứng cứ để chứng minh hành vi của người chồng:
- Chứng cứ có thể là những tin nhắn, hình ảnh, băng ghi âm, ghi hình cho thấy có dấu hiệu ngoại tình. Những tin nhắn, hình ảnh này phải là những tin nhắn do chính chồng bạn nhắn và các hình ảnh phải là hình ảnh chụp lại cử chỉ thân mật, vượt quá giới hạn.
- Việc ngoại tình có thể được chứng minh bằng việc họ có con chung với nhau. Ngoài cách chứng minh này, bạn còn có thể chứng minh thông qua việc xin xác nhận của hàng xóm việc họ chung sống như vợ chồng và có con với nhau.
- Chứng cứ có thể là chính lời khai của chồng bạn.
Tóm lại, với trường hợp của bạn, bạn có thể làm đơn tố cáo hành vi của người chồng tới cơ quan công an xã (phường) để yêu cầu giải quyết. Đồng thời, bạn cần cung cấp đầy đủ các chứng cứ để chứng minh hành vi đó.
Câu 2:
Kính chào Luật sư, tôi có vấn đề muốn được hỏi Luật sư như sau.
Tôi có một người bạn đã kết hôn năm 2010, hiện họ đã có với nhau một con trai 6 tuổi.Tuy nhiên trong thời gian gần đây, bạn tôi phát hiện chồng có quan hệ ngoài luồng với một cô gái khác. bạn tôi đã nhiều lần bắt được quả tang chồng đang qua lại với cái cô gái đó, hai người họ đã công khai quan hệ tình cảm với nhau. Chồng bạn tôi không những bỏ bê gia đình, không chăm lo cho vợ con mà còn thường xuyên đanh đập bạn tôi, tuyên bố sẽ bỏ vợ để đến với người phụ nữ kia. Bạn tôi cũng đã gặp cô gái kia để khuyên bảo, răn đe nhưng đều không có kết quả. Cô ấy thật sự mệt mỏi và muốn nhanh chóng chấm dứt cuộc hôn nhân này. Tôi có nghe nói hiện nay có quy định ngoại tình thì có thể sẽ bị xử phạt hành chính hoặc phạt tù, tôi đang muốn giúp bạn tôi giải quyết theo hướng này.
Vậy xin Luật sư tư vấn rõ cho tôi hiểu quy chế của Pháp luật hiện hành liên quan đến việc ngoại tình và xử lý đối với hành vi này. Tôi xin chân thành cảm ơn Luật sư.
Trả lời: Đầu tiên, Văn Phòng Luật Sư Gia Đình gửi lời cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về hộp thư tư vấn của chúng tôi, về vấn đề bạn thắc mắc, tôi xin được trả lời cụ thể như sau:
Hiện nay chưa có bất cứ khái niệm chính xác nào về ngoại tình nhưng thông thưởng, theo cách hiểu truyền thống, phổ biến thi ngoài tình là hành vi của người đã có vợ, có chồng nhưng vẫn có quan hệ tình cảm với người khác đã có hoặc chưa có vợ hoặc chồng. Việc ngoại tình thông thường diễn ra trong thời gian xác định, có thể công khai hoặc không công khai nhưng vô hình chung vẫn gây ra những ảnh hưởng nhất định đối với tình cảm vợ chồng và là một trong những nguyên nhân dễ dẫn tới đổ vỡ hôn nhân nhất.
Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định các quy chế bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, theo đó, nghiêm cấm một số hành vi xâm phạm đến chế độ hôn nhân một vợ một chồng như:
– Thứ nhất, Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
– Thứ hai, kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Như vậy, đối với trường hợp của gia đình bạn của chị, nếu chồng chị ấy đã có hành vi quan hệ tình cảm với người khác trong một khoảng thời gian nhất định và không có ý định chấm dứt mối quan hệ đó, thậm chí còn có ý định công khai mối quan hệ ngoài luồng này để gây áp lực cho chị và gia đình. Hành vi này là hoàn toàn trái phái luật, xâm phạm đến chế độ hôn nhân một vợ một chồng mà nhà nước ta tôn trọng và bảo vệ, vi phạm đạo đức nghiêm trọng. Hiện nay, để có chế tài xử lý đối với hành vi trái pháp luật này, nghị định số 67/2015/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp,… xác định, đối với hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng bị xử phạt như sau:
Phạt tiền từ 1 triệu đến 3 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
Phạt tiền từ 10 đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau: Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân; Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu về trực hệ.
Ngoài xử phạt hành chính đối với các trường hợp chung sống với nhau như vợ chồng, kết hôn giữa những người cùng dòng máu trực hệ hoặc có quan hệ nhất định trong gia đình, hành vi “ngoại tình” còn có thể bị xử lý Hình sự theo quy định tại Điều 182 Bộ Luật Hình sự năm 2015 về tôi xâm phạm ché độ một vợ, một chồng như sau: Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
– Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
– Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
– Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Đối với trường hợp của bạn chị, nếu chồng chị ấy và người bạn gái mới có quan hệ tình cảm ở mức kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với chồng bạn chị mặc dù đã biết hoặc phải biết mà vẫn cố ý thực hiện thì nếu có căn cứ, có thể bị xử lý hình sự là phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm . Nếu ở mức độ gây hậu quả nghiêm trọng khiến cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát ….thì có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.