Luật Sư Chuyên Bào Chữa Trong Giai Đoạn Điều Tra
Trong giai đoạn này, việc đầu tiên mà luật sư phải làm là thực hiện thủ tục để được tham gia với tư cách là người bào chữa của người bị tạm giữ, bị can. Trước đây, luật sư phải làm thủ tục để cơ quan điều tra cấp giấy chứng nhận người bào chữa, chỉ sau khi được cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì luật sư mới được chính thức tham gia vào tố tụng. Nhưng để được cấp “giấy chứng nhận” đương nhiên theo luật thì luật sư thường bị gây khó, phiền hà từ phía cơ quan điều tra, một phần do nhận thức chưa thấu đáo của cơ quan điều tra, một phần do chủ ý của một số cán bộ điều tra cản trở sự “vào cuộc” của luật sư. Từ những bất cập nêu trên mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thay thế thủ tục xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, theo đó: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký người bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu các giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa trong hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản.
Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, văn bản này sẽ hết hiệu lực trước khi kết thúc vụ án. Đó là khi người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa; người đại diện của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa” (Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).
Quy định này của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã đơn giản hóa thủ tục, tạo một bước tiến đáng kể trong việc để luật sư nhanh chóng được “nhập cuộc”, đảm bảo tính kịp thời, hiệu quả, phù hợp với khoản 2 Điều 9 Luật Luật sư về nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở hoạt động hành nghề luật sư.
Sau khi đăng ký bào chữa được chấp nhận, luật sư chính thức có tư cách người bào chữa, tham gia vào giai đoạn điều tra. Luật sư cần gặp gỡ, làm việc với cơ quan điều tra, có thể trao đổi về nội dung vụ án nếu cần thiết, đảm bảo có lợi cho người được bào chữa.
Luật sư bào chữa tại tòa
Luật sư tiến hành gặp gỡ, tham gia lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can. Công việc này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm tính khách quan của việc điều tra, hạn chế được các vi phạm pháp luật có thể xảy ra như: ép cung, mớm cung, bức cung, làm sai lệch hồ sơ vụ án…
Ngoài ra, việc luật sư bào chữa tham gia vào các hoạt động điều tra khác như khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, xem xét dấu vết thân thể… cũng là một hoạt động cần thiết và có ý nghĩa; thông qua các hoạt động này, luật sư có thể phát hiện được những tình tiết mới của vụ án hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, các tình tiết có ý nghĩa minh oan cho bị can trong trường hợp bị can vô tội, làm hạn chế tình trạng oan sai ngay từ giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự.
Tuy là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự nhưng ngay từ công việc điều tra, luật sư đã phải định hướng cho mình cách nghiên cứu hồ sơ, thu thập tài liệu, chứng cứ và định hướng việc bào chữa cho bị can nhằm bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp cho họ.
Trên thực tế, có một số vấn đề ảnh hưởng đến vai trò của người bào chữa (luật sư) trong giai đoạn điều tra như sau:
1. Sau khi đăng ký bào chữa được cơ quan điều tra chấp nhận thì việc tiếp cận bị can vẫn còn có thể gặp những khó khăn mới nảy sinh. Mặc dù việc gặp gỡ bị can trong giai đoạn này là hoạt động cần thiết và được luật tố tụng hình sự cho phép, tuy nhiên nhiều trường hợp khi luật sư muốn tiếp cận bị can thì thường không thực hiện được do cơ quan điều tra đưa ra lý do là “điều tra viên đang bận công tác khác” hoặc “án phức tạp nên chưa gặp được bị can”...
2. Quá trình lấy lời khai, hỏi cung ở những giai đoạn quan trọng thường ít có sự chứng kiến của luật sư. Thông tư 70/2011/TT-BCA của Bộ Công an quy định điều tra viên phải thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung cho luật sư trước 24 giờ hoặc trước 48 giờ với người bào chữa ở xa. Nhưng thực tế, có những trường hợp luật sư bị hẹn sai giờ, không được thông báo hoặc thậm chí có trường hợp bắt đầu hỏi cung bị can thì điều tra viên mới thông báo cho luật sư biết nên luật sư không thế bố trí thời gian kịp để tham gia hỏi cung...
3. Việc luật sư tiếp cận tài liệu, chứng cứ của vụ án còn có phần hạn chế. Pháp luật tố tụng hình sự cho phép luật sư được sao chụp hồ sơ vụ án, nhưng có nhiều vụ án luật sư rất khó tiếp cận hồ sơ do cơ quan điều tra trả lời hồ sơ chưa được hoàn thiện, vụ án có tính chất phức tạp, viện kiểm sát chưa phúc cung…
4. Pháp luật quy định bị can có quyền được mời luật sư bào chữa nhưng thực tế có nhiều trường hợp xuất hiện sự bất thường từ chối luật sư bào chữa do tác động của phía cơ quan điều tra.
Khi đã nắm bắt được thời gian hỏi cung người bị tạm giữ, bị can của Điều tra viên thì luật sư cần lập một kế hoạch cụ thể để tham gia vào buổi hỏi cung đó như kiến nghị với Điều tra viên cần phải làm rõ những vấn đề gì, chuẩn bị các câu hỏi để hỏi người bị tạm giữ, bị can. Tùy từng vụ án khác nhau mà luật sư chuẩn bị những câu hỏi khác nhau. Thí dụ, trong các vụ án mà người bị tạm giữ, bị can bị bắt quả tang luật sư cần đặt những câu hỏi khác với những câu hỏi mà bị can không bị bắt quả tang; trong những vụ án có đồng phạm luật sư cần đặt câu hỏi để làm rõ vị trí vai trò của người bị tạm giữ, bị can trong số các đồng phạm; đặt các câu hỏi về mối quan hệ của người bị tạm giữ, bị can với các đồng phạm khác và đặt những câu hỏi để xác định rõ bị can, người bị tạm giữ tham gia vụ án có phải do bị ép buộc, lôi kéo không? Khi tham gia vào những vụ án mà tội phạm có dấu hiệu định lượng trong cấu thành tội phạm (các tội phạm về ma túy, các tội phạm liên quan đến chiếm đoạt tài sản…) thì luật sư lại đặt những câu hỏi khác với các vụ án mà dấu hiệu định lượng không có ý nghĩa quyết định đến tội danh và hình phạt. Thí dụ, khi tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can bị truy tố về tội “trộm cắp tài sản”, nếu việc xác định giá trị tài sản trộm cắp chưa chính xác, có thể gây bất lợi cho thân chủ của mình thì luật sư cần đặt các câu hỏi để làm rõ giá trị tài sản trong từng thời điểm (giá trị tài sản khi người bị hại mua, giá trị tài sản khi bị chiếm đoạt). Qua các câu hỏi đó, luật sư làm rõ tính chât của hành vi phạm tội (hành vi bị truy tố theo khoản nào, khung nào của điều luật). Trong những trường hợp giá trị tài sản nói riêng hoặc giá trị đối tượng của tội phạm nói chung không thể xác định một cách chinh xác thì luật sư có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định hoặc có công văn hỏi cơ quan thẩm định giá.
Trong những trường hợp Điều tra viên đặt những câu hỏi có tính chất mớm cung hoặc bức cung đối với người bị tạm giữ, bị can thì luật sư không nên phản ứng gay gắt với Điều tra viên bởi làm mất hay hạ thấp uy tín của Điều tra viên trước mặt người bị tạm giữ, bị can là điều tối kỵ. Trong trường hợp này luật sư cần khéo léo, tế nhị đề nghị Điều tra viên không nên hỏi những câu hỏi đó hoặc luật sư đề nghị đặt những câu hỏi cho thân chủ của mình để phản bác lại câu hỏi của Điều tra viên.
Khi tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra, luật sư không những được hỏi cung người bị tạm giữ, bị can mà còn được quyền tham gia vào các hoạt động điều tra khác như thực nghiệm điều tra, khám nghiệm hiện trường, khai quật tử khi, kê biên tài sản, khám chỗ ở, địa điểm, đối chất, nhận dạng… Khi tham gia vào các hoạt động nói trên, luật sư vừa thu nhận được những thông tin cần thiết về vụ án vừa giám sát hoạt động của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng (thí dụ, thành phần những người tham gia khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi có đúng không?...)
Khi tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra, nếu luật sư nắm được kế hoạch thực hiện các hoạt động điều tra của Điều tra viên, luật sư cần sắp xếp thời gian để tham gia bởi sự có mặt và chứng kiến, giám sát của luật sư trong những hoạt động này không những làm cho Cơ quan điều tra, Điều tra viên phải thực hiện công việc đúng theo trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS mà còn kịp thời phát hiện ra những sai sót của Cơ quan điều tra (nếu có) để có những kiến nghị kịp thời đề nghị Cơ quan điều tra, Điều tra viên khắc phục để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng mình nói riêng và pháp chế xã hội chủ nghĩa nói chung. Khi tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra, nếu luật sư nhận thấy cần thiết phải trưng cầu giám định, giám định lại, giám định bổ sung hoặc đối chất, khai quật tử thi… thì luật sư cần có văn bản đề nghị Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động đó và yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp cho mình kết quả giám định theo quy định của BLTTHS...