Luật Sư Tư Vấn Đền Bù Thu Hồi Đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN KHIẾU NẠI VÀ YÊU CẦU
(V/v: Không đồng ý với mức giá bồi thường, hỗ trợ, tái định cư… khi thu hồi đất của tôi tại dự án xây dựng Cống Mương Lệ, phường Bình Hưng Hòa B, Quận Bình Tân, TPHCM).
Kính gửi:ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN – TPHCM
BAN BỒI THƯỜNG GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG QUẬN BÌNH TÂN – TPHCM
Người khiếu nại: ông Lê Văn Thiện, sinh năm: 1955
Địa chỉ: 78 Tân Hòa Đông, phường 14, quận 6, TP.HCM
Người bị khiếu nại: ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN - TP.HCM.
Nội dung khiếu nại:
Tôi là chủ sử dụng quyền sử dụng nhà đất tại địa chỉ: thửa đất số 311, tờ bản đồ 174, phường Bình Hưng Hòa B, Bình Tân, TPHCM, theo giấy chứng nhận số CA 057692 cấp ngày 7/5/2015 cho tôi và vợ Nguyễn Thị Kiền.
Vừa qua tôi được ban bồi thường quận Bình Tân ban hành thông báo mời tôi lên cung cấp các giấy tờ pháp pháp lý phần đất gia đình tôi bị ảnh hưởng quy hoạch
Tuy nhiên, theo như các thông báo, phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư mà UBND Quận Bình Tân gửi tôi bản dự thảo chưa có con dấu, chữ ký của người và cơ quan có thẩm quyền nên tôi hoàn toàn không đồng ý với mức giá bồi thường cũng như hỗ trợ tài sản trên đất, hỗ trợ nghề nghiệp, di dời, tái định cư theo quy định pháp luật đất đai hiện hành.
Tại thời điểm nhận chuyển nhượng đất ngày 30/3/2015 tôi đã nhận chuyển nhượng thửa đất trên với giá 1 tỷ đồng, tương đương khoảng 10.000.000 đồng/m2 (đính kèm hợp đồng đặt cọc). Từ đó đến nay đã 03 năm nhưng khi thu hồi và bồi thường về đất thì UBND Quận Bình Tân lại ban hành giá bồi thường chỉ khoảng: 9.000.000 đồng/m2, giá bồi thường này thấp hơn giá tôi nhận chuyển nhượng từ năm 2015, đây là điều phi lý, thiếu căn cứ, xâm phạm đến quyền lợi tôi và gây thiệt hại nghiêm trọng cho tôi trong khi theo quy định pháp luật đất đai hiện hành nhà đất gia đình tôi đã được cấp giấy chứng nhận và khi bồi thường phải bồi thường giá thị trường chứ không phải theo khung bảng giá đất của cấp tỉnh, TP. Trong khi theo giá đất thị trường hiện hành thì vị trí đất tôi trị giá trung bình từ 40 triệu đến 50 triệu/m2.
Việc bồi thường, tái định cư, hỗ trợ của UBND qquận Bình Tân là không đúng theo Pháp luật đất đai 2003 và Luật đất đai 2014 hiện hành, cụ thể
Căn cứ theo quy định pháp luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư quy định như sau:
1/. Mức bồi thường giá đất chỉ khoảng: 9.000.000 đồng/m2. Đây là giá bồi thường quá thấp so với giá thị trường, không bảo đảm quyền lợi cho tôi. Đây là phần diện tích đất mà toàn thể các thành viên gia đình tôi tích góp bao nhiêu năm và của gia đình tôi được mẹ tích góp cả đời cho chúng tôi. Với số tiền này gia đình tôi không đủ để mua phần diện tích đất khác tương đương để bảo đảm nuôi sống đủ các thành viên trong gia đình. Theo khảo sát giá của tôi đất xung quanh và giao dịch thực tế hiện nay trên thị trường thì đất nay trị giá khoảng 40.000.000 đồng/m2 đến 60.000.000 đồng/m2 tùy khu vực.
Theo quy định tại khoản 2, điều 4, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 quy định giá đất bồi thường như sau:
"Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố; không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng; trường hợp tại thời điểm có quyết định thu hồi đất mà giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp”.
Như vậy khi bồi thường, phải bồi thường sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường theo đúng quy định trên.
Ngoài ra tại khoản 1, điều 11, Nghị định số 69/2009NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định:
"Khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất, cho thuê đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và trường hợp doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa lựa chọn hình thức giao đất mà giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tại thời điểm giao đất, cho thuê đất, thời điểm quyết định thu hồi đất, thời điểm tính giá đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường để xác định lại giá đất cụ thể cho phù hợp".
Tại khoản 1, điều 5 Thông tư số 14/2009/TT- BTNMT ngày 1/10/2009 của Bộ tài nguyên Môi trường quy định:
"Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm.
Trường hợp giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao cho cơ quan chức năng xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất"
Cũng tại khoản 1, điều 9 Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn TPHCM (ban hành kèm theo Quyết định số 35/2010/QĐ-UBND của UBND TP.HCM ngày 28/5/2010) quy định như sau:
Giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại,
1. Giá đất để tính bồi thường: là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được Ủy ban nhân dân thành phố quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm.
Trường hợp tại thời điểm quyết định thu hồi đất mà giá đất do Ủy ban nhân dân thành phố công bố chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường, thì Ủy ban nhân dân quận, huyện thuê đơn vị tư vấn có chức năng xác định lại giá đất cụ thể để tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất; trên cơ sở kết quả của đơn vị tư vấn, Ủy ban nhân dân quận, huyện đề xuất đơn giá đất gửi Hội đồng thẩm định bồi thường thành phố thẩm định và trình Ủy ban nhân dân thành phố quyết định giá đất để tính bồi thường. Phân công cho Ủy viên Ủy ban nhân dân thành phố kiêm Giám đốc Sở Tài chính thay mặt Ủy ban nhân dân thành phố, ký thay Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố văn bản phê duyệt giá đất để tính bồi thường; văn bản phê duyệt được đóng dấu của Ủy ban nhân dân thành phố.
Khi xác định giá đất để tính bồi thường phải đảm bảo nguyên tắc theo mục đích sử dụng hợp pháp, được hình thành từ kết quả của những giao dịch thực tế đã hoàn thành, mang tính phổ biến giữa người chuyển nhượng và người nhận chuyển nhượng trong điều kiện thương mại bình thường, không chịu tác động của các yếu tố gây tăng hoặc giảm giá đột biến không hợp lý, như: đầu cơ, thiên tai, địch họa, khủng hoảng kinh tế, tài chính, thay đổi quy hoạch, chuyển nhượng trong tình trạng bị ép buộc, có quan hệ huyết thống hoặc có những ưu đãi khác"
Căn cứ vào những quy định nêu trên việc UBND quận Bình Tân ban hành Phương án dự thảo bồi thường với mức giá khu vực tôi 9.000.000 đồng/m2 là không những vi phạm pháp luật đất đai về bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư mà còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của tôi. Trong khi đất tôi liền kề giáp với đất khu dân cư sinh sống thì liệu đây là tiền đền bù, hỗ trợ và tái định cư hay đây là hành vi cố tình lấy đất của tôi với mức giá thấp.
Ngoài ra còn các văn bản mới mà Quốc hội và Chính phủ, Bộ tài nguyên Môi trường mới ban hành đều được áp dụng như: Luật đất đai 2014, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, Nghị định số 43/2014NĐ-CP quy định chi tiết một số điều luật đất đai, Thông tư số 37/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, thông tư số 36/2014/TT-BTNMT quy định phương pháp định giá đất, xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất, Nghị định số 44/2014/NĐ-CPngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về giá đất.
Tất cả các luật, văn bản và nghị định nêu trên nội dung đều quy định khi bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đều phải áp dụng giá bồi thường là giá thực tế, giá đất liền kề mà các bên đã chuyển nhượng, phải thẩm định giá đất sát với giá thị trường chuyển nhượng thức tê, phải bồi thường đất đúng quyền lợi cho người bị thu hồi, hỗ trợ di dời, hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp, mất thu nhập khi bị thu hồi đất, hỗ trợ hoa màu, mất đất canh tác...
Không những thự hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không đúng pháp luật mà việc thực hiện quy trình, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ tái định cư cũng không thuân thủ quy định pháp luật, vi phạm pháp luật đất đai 2003 và cả luật đất đai 2014 hiện hành, cụ thể tại điều Điều67 Luật đất đai 2013 quy định về thông báo thu hồi đất và chấp hành quyết định thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng như sau:
1. Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết. Nội dung thông báo thu hồi đất bao gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm.
Tuy nhiên, cho đến nay tôi chưa nhận được bất kỳ quyết định và thông báo thu hồi đất nào mà lại ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư số: 5299/QĐ-UBND ngày 29/12/2015 là vi phạm pháp luật đất đai,vi phạm pháp luật và hiến pháp về quyền sử dụng được pháp luật thừa nhận.
Ngoài ra, tại Điều69 Luật đất đai 2013 quy định về Trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng quy định như sau:
1. Xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm được quy định như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất ban hành thông báo thu hồi đất.
Thông báo thu hồi đất được gửi đến từng người có đất thu hồi, họp phổ biến đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi;
b) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm;....
2. Lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau:
a) Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền;
b) Cơ quan có thẩm quyền thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất.
3. Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày;
b) Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đến từng người có đất thu hồi, trong đó ghi rõ về mức bồi thường, hỗ trợ, bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có), thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn giao đất đã thu hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;
c) Tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt;
d) Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện.
..........................................................
Như vậy, UBND quận Bình Tân vẫn không thực hiện đúng thủ tục việc thu hồi, bồi thường và tái định cư như trên cho tôi mà gửi văn bản ngày 11/4/2018 với nội dung mang tính chất hành chính, quyền lực là điều khó chấp nhận.
Khi bồi thường đất cho tôi thì ngoài bồi thường giá đất còn phải hỗ trợ, bồi thường do mất thu nhập, ổn định nghề nghiệp, tái định cư theo như quy định luật đất đai 2003 và luật đất đai 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật đất đai đã quy định rất rõ ràng.
Tại điều 74 Luật đất đại 2014 đã quy định về Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất như sau:
“1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”
Tuy nhiên, UBND quận Bình Tân đã không thực hiện đúng quy định pháp luật đất đai như trên, gây thiệt hại nghiêm trọng cho tôi và gia đình tôi với bản dự thảo phương án bằng phô tô gửi cho gia đình tôi.
Việc thu hồi đất bồi thường, hỗ trợ không đúng luật, không khách quan, không minh bạch … là điều không thể chấp nhận được mà Quốc hội và Chính phủ đã yêu cầu phải nghiêm minh, triệt để bảo đảm quyền lợi cho dân trong các kỳ họp quốc hội Nước cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt nam luôn đề cập đến.
Nay tôi khiếu nại và yêu cầu mức hỗ trợ và bồi thường, tái định cư phải đúng theo luật. Về đất thì giá đất bồi thường theo giá thị trường là 50.000.000 đồng/m2.
Hoán đổi đất.................
Nếu không giải quyết triệt thỏa đáng tôi khiếu nại, khởi kiện tới cùng căn cứ theo quy định pháp luật.
Kính mong Qúy cơ quan giải quyết đúng pháp luật, bảo đảm quyền lợi cho tôi. Bảo đảm tính Pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
Xin chân thành cảm ơn.
TP.HCM, ngày tháng năm 2018
Người làm đơn
Đính kèm:Phương án bồi thường, thông báo phô tô, thông báo gửi tôi, các giấy tờ liên quan đất nhà của tôi.