Luật sư bào chữa tiền phúng viếng có phải là di sản thừa kế?
1. Tiền phúng viếng có phải là di sản thừa kế không?
Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại cho người còn sống. Theo quy định tại Điều 634“Bộ luật dân sự năm 2015” thì:
“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác”.
Di sản thừa kế là tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản khi còn sống. Tài sản theo quy định tại Điều 163 “Bộ luật dân sự 2015”:
“Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
Thành phần di sản bao gồm các loại tài sản khác nhau và không bị hạn chế về số lượng, giá trị.
Tài sản riêng của người chết được xác định khi người đó còn sống, có quyền sở hữu tài sản của mình một cách độc lập và tự do chiếm hữu, sử dụng, định đoạt theo ý chí của mình mà không lệ thuộc theo ý chỉ của chủ thể khác trên cơ sở tuân theo các quy định của pháp luật. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác bao gồm: người chết là đồng sở hữu chung hợp nhất tài sản chung với vợ hoặc chồng; người chết là sở hữu chung hợp nhất theo phần đối với tài sản chung với người khác. Các quyền tài sản khác của người chết để lại là di sản thừa kế gồm quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, các khoản tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ phát lý khác,… là di sản thừa kế của người đó. Quyền sở hữu cá nhân là cơ sở chủ yếu để xác định di sản thừa kế của các nhân sau khi qua đời. Những loại tài sản này mà một ngời khi còn sống có quyền sở hữu và khi người đó chết thì những tài sản này là di sản thừa kế, được đem chia thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Trong trường hợp nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại lớn hơn hoặc ngang bằng với giá trị di sản của nguười này để lại thì khi đó không còn di sản để chia thừa kế.
Về bản chất, tiền mai táng phí là một khoản tiền thuộc quyền sở hữu của người chết. Đó là một loại tài sản được xác định (tiền VND) nên hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu là di sản thừa kế. Khoản tiền này tồn tại nhưng không xuất hiện khi người đó còn sống mà chỉ xuất hiện khi người đó chết để chi trả cho việc làm lễ mai táng của người đó: mua quan tài, đèn, hương, vòng hoa, làm cỗ,…với mục đích là chia buồn cùng tang gia.
Trong đa số các trường hợp, khoản tiền hỗ trợ mai táng phí sẽ được dùng hết và không còn để chia thừa kế nhưng về bản chất nó vẫn là di sản thừa kế.
Thông thường, khi một người chết thì thân nhân hoặc tổ chức xã hội sẽ đứng ra làm lễ mai táng. Số tiền trợ cấp mai táng này sẽ được ưu tiên đầu tiên chi trả cho người trực tiếp bỏ chi phí đứng ra tổ chức lễ mai táng sau đó. Trong trường hợp người chết để đã lại một phần tài sản dùng để mai táng hoặc dùng không hết số tiền hỗ trợ mai táng thì tiền mai táng sẽ được dùng để thực hiện các nghĩa vụ tài sản khác. Sau được dùng để thực hiện hết các nghĩa vụ tài sản của người chết mà vẫn còn thì số tiền hỗ trợ mai táng đó có thể được đem ra để chia thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Tiền mai táng phí được Nhà nước hỗ trợ theo trình tự, thủ tục nhất định và người còn sống hoàn toàn có thể xác lập quyền sở hữu của mình đối với khối tài sản này. Chẳng hạn, nếu người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 60 tháng trở lên mà mất sẽ được nhận trợ cấp mai táng. Trong trường hợp như vậy, người còn sống hoàn toàn có căn cứ xác lập quyền sở hữu với tài sản này, có thể định đoạt số tài sản này sau khi chết nên chi phí mai táng hoàn có thể trở thành di sản thừa kế theo Điều 634 của “Bộ luật dân sự năm 2015”.
2. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người đã mất để lại?
Luật sư cho hỏi về nghĩa vụ của người chết để lại xử lý thến nào, cụ thể như sau: Mẹ tôi là giáo viên đã về hưu mới mất ngày 4/8/2016. Mẹ tôi được tiền tử tuất, chế độ cấp 1 lần đã có quyết định của bhxh là 216.484.400 đồng. Khi còn sống mẹ tôi có vay tiền theo lương hưu số tiền còn lại là 118.000.000đ. Tiền vay này có bảo hiểm tiền vay 100%.
Khi tôi đến bưu điện nhận tiền thì nhân viên ở đây không cho tôi lĩnh hết tiền tử tuất và chế độ của mẹ tôi, mà đòi trừ vào số tiền 118tr kia đến bao giờ bảo hiểm chi trả mới giả cho tôi. Tôi không đồng ý và ra về. Ngoài ra hôm sau nhân viên ngân hàng Liên Việt còn gọi điện bảo tôi nếu không khấu trừ tôi sẽ phải tiếp tục chịu tiền lãi vay trong khi mẹ tôi đã mất. Như thế có đúng quy định của pháp luật không?
Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới Văn Phòng Luật Sư Gia Đình, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Theo thông tin bạn cung cấp thì chúng tôi hiểu rằng thời điểm mẹ bạn còn sống đã dùng sổ bảo hiểm của mình thế chấp để làm tài sản bảo đảm cho hợp đồng vay với phía Ngân hàng Liên Việt. Nhưng chưa hoàn tất nghĩa vụ hoàn trả số tiền vay cho phía ngân hàng thì mẹ bạn mất - hợp đồng vay chấm dứt.
Tuy nhiên, trường hợp mẹ bạn có di sản để lại thì những người thừa kế hợp pháp theo pháp luật đối với phần di sản đó vẫn sẽ có nghĩa vụ trách nhiệm trả nợ thay trong phạm vi di sản để lại (di sản mẹ bạn là khoản tiền bảo hiểm - chế độ tử tuất tương ứng 216.484.400 và số nợ là 118 triệu). Cụ thể, Bộ luật dân sự năm 2015:
Điều 372. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự
Nghĩa vụ dân sự chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
....
8. Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân, chủ thể khác chấm dứt mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân, chủ thể đó thực hiện;
Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Đồng thời, Bộ luật Dân sự 2015 cũng có quy định:
Điều 318. Tài sản thế chấp
4. Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và bên thế chấp có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận thế chấp.
Điều 323. Quyền của bên nhận thế chấp tài sản
....
5. Yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý khi bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Như vậy, trong trường hợp của mẹ nếu hợp đồng có nội dung, điều khoản liên quan tới xử lý tài sản bảo đảm khi chấm dứt hợp đồng. Đồng thời, bên ngân hàng có thông báo tới tổ chức bảo hiểm về tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì đương nhiên khi mẹ bạn mất phía bên ngân hàng có quyền thực hiện khấu trừ khoản nợ 118 triệu từ tiền chế độ bảo hiểm tử tuất mà mẹ bạn được thanh toán sang. Trường hợp, không khấu trừ thì gia đình (những người thừa hưởng di sản này) có nghĩa vụ phải nộp tiền lãi tương ứng với khoản vay trên. Do đó, yêu cầu từ phía bên ngân hàng đưa ra là hợp lý.
3. Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là bao lâu?
Chào luật sư, bố mẹ tôi mất vào năm 2000 và 2002, khi mất bố mẹ tôi có để lại phần di sản là 1 miếng đất thuộc sở hữu của hai người mà không ai để lại di chúc gì cả, miếng đất này có nhà và trước giờ giao cho anh cả tôi ở và thờ cúng . Gia đình tôi chưa bao giờ họp để phân chia di sản này mà cứ để đó. Nay anh tôi muốn bán đất nên các anh em khác không đồng ý dẫn đến tranh chấp không thể hòa giải được. Tôi nghe nói, thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là 10 năm, hiện nay đã hết thời hiệu rồi thì không có quyền khởi kiện nữa.
Vậy chúng tôi phải làm thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ?
Luật sư tư vấn:
Dựa trên quy định tại điều 623 của Bộ luật dân sự 2015
Điều 623. Thời hiệu thừa kế
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Như vậy thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế đối với bất động sản là 30 năm kể từ ngày bố bạn mất. Như vậy trong trường hợp này anh chị em nhà bạn vẫn có quyền yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.