Luật Sư Tranh Tụng Nhà Đất
MỘT SỐ Ý TRÌNH BÀY TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM LẦN 2
"Điều 104. Thời hiệu khởi kiện theo Luật tố tụng hành chính.
2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:
" 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc".
Thời hiệu khởi kiện về hành chính đã hết kể từ ngày ông Nhận được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Luật đất đai 1993 và sửa đổi bổ sung 2001 đều quy định khi cấp đất đều có thông báo đến chính quyền địa phương phường/xã nơi có đất, có xác nhận của UBND xã nơi có đất, nếu đất không tranh chấp thì được cấp đất. Việc UBND huyện Tân Hưng khi cấp đất cho ông Tôi đã thông báo cho địa phương, niêm yết theo trình tự luật định. Vậy tại sao ông Xe, bà Cần không khởi kiện hành chính để hủy giấy chứng nhận trước đây trong khi ông Xe, Gần đã biết được việc tôi được cấp giấy chứng nhận.
Yêu cầu công nhận việc mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn Dân và ông Trần Văn Nhận.
Việc mua bán chuyển nhượng này diễn ra trước năm 1993, tức trước khi Luật đất đai 1993 có hiệu lực.
theo quy định tại tiểu mục 2.2 Mục 2 Phần II của Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTPngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao thì:
"2.2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ ngày 01/7/1980 (ngày Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP) đến trước ngày 15/10/1993 (ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực)
Pháp luật thời kỳ này nghiêm cấm việc mua, bán phát canh thu tô chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức; do đó, khi có tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Toà án giải quyết như sau:
a) Về nguyên tắc chung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai được xác lập trong thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 là hợp đồng trái pháp luật; do đó, nếu có tranh chấp mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được thực hiện thì Toà án huỷ hợp đồng vì hợp đồng bị vô hiệu. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 này.
b) Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện thì Toà án công nhận hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
b.1. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
b.2. Trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân đã cho phép việc chuyển nhượng;
b.3. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm qui định về quy hoạch và bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên đất đó.
Với quy định nêu trên thì mặc dù việc tôi và ông Dân không công chứng, chứng thực nhưng có rất nhiều người làm chứng xác nhận việc mua bán này. Từ đó đến nay, tôi cũng đã sử dụng đất ổn định...do đó quyền sử dụng đất của tôi là hợp pháp theo quy định trên và tòa án phải công nhận giao dịch chuyển nhượng này của tôi và ông Dân. Vì UBND huyện đã cấp GCN QSDĐ cho tôi phần diện tích đất trên, nên theo quy định trên Tòa án phải công nhận hợp đồng của tôi.
Do tại thời điểm đó pháp luật cấm chuyển nhượng đất nên mới có hình thức chuyển nhượng này chứ không phải cố 50 năm như bản án sơ thẩm và phúc thẩm nhận định.
Ngoài ra, Điều 49Luật đất đai 2004 quy định như sau:
Những trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp sau đây:
.........................................................
3. Người đang sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 và Điều 51 của Luật này mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
......................................
Điều 50 Luật đất đai 2003 quy định:
Cấpgiấy chứng nhận quyền sử dụng đấtcho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấpgiấy chứng nhận quyền sử dụng đấtvà không phải nộp tiền sử dụng đất:
......................................
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
.........................................................................
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấpgiấy chứng nhận quyền sử dụng đấtvà không phải nộp tiền sử dụng đất.
..........................................................................................
4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấpgiấy chứng nhận quyền sử dụng đấtvà không phải nộp tiền sử dụng đất.
..................................................................................................
6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấpgiấy chứng nhận quyền sử dụng đấtvà phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.
Căn cứ vào quy định trên, tôi và gia đình tôi sử dụng đất từ trước năm 1993, sử dụng ổn định, canh tác, có chính quyền UBND xã xác nhận không có tranh chấp nên mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phù hợp với quy định trên.
Ngoài ra, cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Do theo hướng yêu cầu công nhận hợp đồng nên không bàn đến vấn đề tính bồi thường giá thị trường nữa vì như vậy là đi nước đôi, không hiệu quả.
- Các vấn đề vi phạm tố tụng như bản án phúc thẩm đã nêu.
- Trình bày bản tự khai trùng nhau, trả lời không thuyết phục, gian dối, cấn tố cáo xử lý thẩm phán cố tình về hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án theo quy định pháp luật hình sự.
- Không cung cấp được bằng chứng cứ cố đất trong khi giao dịch dân sự là chứng cứ, tòa án chỉ xem chứng cứ giải quyết chứ không nghe lời nói, không có căn cứ.
- Việc xét xử cho là giao dịch cầm cố nhưng không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào đây là giao dịch cầm cố là vi phạm luật tố tụng quy định về chứ cứ, chứng cứ là những cái có thật, được xem xét, thu thập theo quy định.
- Thuế đất ông Nhận đóng từ xưa, là đất nông nghiệp, được canh tác trước năm 1993 nên theo NQ 02/2004 và Luật đất đai 2003 thì việc cấp GCN cho ông Nhận là đúng pháp luật, tòa án phải công nhận giao dịch. Khi cấp GCN chính quyền địa phương đã niêm yết công khai tại địa phương nhưng bên ông Dân không khiếu nại gì. Nên nay khiếu nại khởi kiện là không có căn cứ.
- Toà án không tuyên hủy GCN đã cấp cho tôi vì thời hiệu kiện hành chính tuyên hủy GCN chỉ là 1 năm kể từ ngày cấp GCN, nên quyền kiện hủy GCN của ông Dân đã hết.
ðYêu cầu Tòa án Công nhận giao dịch chuyển nhượng ông Dân, Nhận.
Trân trọng cảm ơn HĐXX