Về mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Mặt khách quan của tôi phạm là những biểu hiện của bên ngoài tội phạm.Mặt khách quan bao gồm các dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội ,hậu quả tác hại do tội phạm gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả do hành vi đó gây ra ; thời gian, địa điểm; công cụ phương tiện thực hiện tội phạm. v.v Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện qua hai đặc điểm đó là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản.
– Thủ đoạn gian dối của tội phạm được thể hiện bằng những hành vi cụ thể như lời nói, hành động, cung cấp thông tin không đúng sự thật nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản làm cho họ tin tưởng và giao tài sản của mình cho người phạm tội.Những thủ đoạn gian dối và ý chí dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người phạm tội phải có trước khi việc giao tài sản là đặc điểm cần lưu ý để phân biệt tội lừa đảo chiếm tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
– Hành vi chiếm đoạt tài sản của tội phạm, một trong những dấu hiệu bắt buộc phải có của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó chính là việc người phạm tội phải chiếm đoạt được tài sản đó thông qua hành vi gian dối của mình. Theo quy định của pháp luật nếu chiếm đoạt của người khác với tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã từng bị xử phạt vi phạm hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm, đã từng bị kết án về tội này hoặc các tội cướp tài sản, bắt cóc chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Về mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện bên trong của tội phạm là thái độ tâm lý của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm gồm các dấu hiệu lỗi,động cơ, mục đích cuả tội phạm. Mặt chủ quan của tội phạm trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ thực hiện là mong muốn chiếm đoạt được tài sản bằng các hành vi lừa đảo, gian dối người bị hại. Động cơ và ý chí lừa đảo luôn phải có trước hành vi chiếm đoạt
Về hậu quả và mối quan hệ nhân quả của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà theo Bộ luật hình sự có giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm này, tuy nhiên nếu hành vi này gây ra hậu quả nghiệm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh, trật tự an toàn xã hội, tài sản chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại, hoặc tài sản bị chiếm đoạt tuy có giá trị không đến 2.000.000 đồng nhưng là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, hoặc đã từng bị kết án về tội này hoặc các tội cướp tài sản, bắt cóc chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng cũng sẽ đủ điều kiện để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, Về mức hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo quy định của pháp luật hiện hành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điều 174 Bộ luật hình sự 2015. Theo đó căn cứ vào quy định này mức hình phạt của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phụ thuộc vào mức độ phạm tội và hậu quả từ hành vi gây ra như sau:
Ở khung hình phạt cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định: Người nào có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác từ 2.000.000 đồng trở lên đến dưới 50.000.000 đồng; hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã từng bị xử phạt vi phạm hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm, hay đã từng bị kết án về tội này hoặc các tội xâm phạm đến quan hệ sở hữu như: cướp tài sản, bắt cóc chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, tài sản chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại, tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, sẽ bị phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm. Đây là khung hình phạt thấp nhất, thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng với tính chất và mức độ nguy hiểm đang ở mức thấp.
Ở khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định người nào có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác từ 50.000.000 đồng trở lên đến dưới 200.000.000 hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, lừa đảo có tính chất có tổ chức, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức, dùng thủ đoạn xảo quyệt. hoặc chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã từng bị xử phạt vi phạm hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm, hoặc đã từng bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay các tội về cướp tài sản, bắt cóc chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, hay tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại, tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại thì sẽ bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm tù. Đây là mức hành phạt nằm trong loại tội phạm nghiêm trọng bởi tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, hành vi tinh vi hơn và hậu quả để lại cao hơn.
Ở khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định người nào có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác từ 200.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, hoặc chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 20.000.000 đồng nhưng đã từng bị xử phạt vi phạm hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm, đã từng bị kết án về tội này hoặc các tội cướp tài sản, bắt cóc chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, tài sản chiếm đoạt là tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại, tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, hoặc lợi dụng thiên tai dịch bệnh để chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
Ở khung hình phạt quy định tại khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định người nào có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá 500.000.000 đồng trở lên; hoặc chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.00 đồng đã từng bị xử phạt vi phạm về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm, đã từng bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc các tội cướp tài sản, bắt cóc chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, tài sản chiếm đoạt là tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại, tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, hoặc lợi dụng thiên tai dịch bệnh để chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm tù hoặc tù chung thân.
Ngoài ra ở khoản 5 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 còn quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Dịch vụ pháp lý của Luật Dương Gia:
– Tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 0972238006
– Tư vấn cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
– Tư vấn tham gia tố tụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
– Tư vấn điều kiện hưởng án treo tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, các vụi Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Mô hình “hiệp sĩ đường phố”: Cần một cơ chế pháp lý rõ ràng
Không phủ nhận hiệu quả của mô hình “hiệp sĩ đường phố” góp vào phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ. Theo thống kê chưa đầy đủ, mỗi năm các nhóm “hiệp sĩ đường phố” tại các địa phương của cả nước bắt giữ trên dưới 1.000 đối tượng cướp giật, trộm cắp tài sản trên đường phố, đem lại sự tin yêu của người dân.
Một thành viên trong nhóm hiệp sĩ quận Tân Bình cho biết, chính thức nhóm “hiệp sĩ đường phố” do anh Trương Văn Hoàng (47 tuổi) làm trưởng nhóm có 7-8 thành viên, số còn lại khoảng 20-30 người là những người có máu nghĩa hiệp (sinh viên, tài xế, xe ôm) tham gia khi rảnh rỗi. Trong nhóm chỉ có anh Hoàng là có võ, số còn lại thì chỉ có… tinh thần nhiệt huyết.
Trên giường bệnh, Nguyễn Đức Huy (22 tuổi, ngụ Tân Phú) và Đinh Phú Quý (22 tuổi, ngụ Củ Chi) cho biết cả 2 đều là sinh viên. Vì thích làm việc trượng nghĩa nên ba năm trước cả 2 xin gia nhập nhóm hiệp sĩ của anh Hoàng. Nhiều lần tham gia bắt trộm cắp, cướp giật nhưng lần này là lần mà cả 2 bị thương nặng nhất. Bởi 2 thành viên này không ngờ đến việc đối tượng mạnh động gây án để hòng trốn chạy.
Huy kể, khi xông vào khống chế thì bị đối tượng rút con dao dài ra đâm vào nhóm hiệp sĩ, Huy không có công cụ hỗ trợ trong tay nên bị đâm vào vùng ngực. Quay lại thấy Quý bị thương nằm trên đường, máu chảy lênh láng, Huy gắng sức điều khiển xe máy chở Quý vào bệnh viện, sau đó cũng ngất đi.
Được chữa trị kịp thời, tỉnh táo, Quý cho hay, lúc xông vào khống chế đối tượng, Quý chỉ có tay không nên đối tượng đã đâm Quý từ phía sau và gục xuống đường. Lúc tỉnh lại thì Quý đã nằm trong phòng cấp cứu.
Nghĩa khí của các “hiệp sĩ đường phố” là đáng trân trọng, đáng được biểu dương, khen ngợi, đáng nhân rộng nhưng xét về một mặt nào đó, xã hội phải được vận hành bằng pháp luật chứ không chỉ dồn vào tinh thần nghĩa khí của một người, một nhóm người. Các nhóm “hiệp sĩ đường phố” được hình thành nhân rộng phần nào đạt được hiệu quả cao trong phòng trào toàn dân bảo vệ ANTQ.
Nếu như không có những người “làm chuyện bao đồng” này thì khi phát hiện ra tội phạm ngoài đường, người dân nào có thể đứng ra chống lại cái ác, cái xấu mà không do dự được - mất gì. Nhưng cái không đúng của các hiệp sĩ là khi phát hiện tội phạm lại làm quá trách nhiệm của mình. Bởi vậy cần có mối quan hệ mật thiết giữa Công an và hiệp sĩ, để khi phát hiện ra tội phạm, chỉ cần một cuộc điện thoại, sự phối hợp giữa hiệp sĩ và cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ bài bản hơn, tránh những rủi ro đáng tiếc.
“Mình thích thì mình tham gia nên ít khi nói chuyện này với vợ con, bởi nói ra họ sẽ can ngăn. Cũng đúng thôi, nếu như làm việc trượng nghĩa phải có phương pháp bài bản, chỉ có lòng dũng cảm thôi cũng không được. Sự cố xảy ra, bị thương thiệt mạng, người bị ảnh hưởng trực tiếp là vợ con, người thân mình. Đa phần những hiệp sĩ là người lao động chân tay, ít võ vẽ lại thiếu kiến thức pháp luật, kỹ năng xử lý tình huống, để khống chế tội phạm, để tự bảo vệ mình nên nhiều lúc gặp nạn là bình thường.
|
CLB phòng chống tội phạm phường Phú Hòa (Bình Dương) hoạt động có qui chế nên được trang bị phương tiện, công cụ hỗ trợ và lập được nhiều thành tích. |
Với lòng nhiệt huyết của các thành viên trong nhóm hiệp sĩ, mình cũng mong muốn được huấn luyện những kỹ năng cơ bản khi đối mặt với tội phạm. Có như vậy mình mới thấy tự tin hơn và sẵn sàng đối mặt với cái ác, cái xấu. Qua việc 5 thành viên trong nhóm thương vong, anh em trong nhóm cũng rút ra kinh nghiệm chỉ làm đúng khả năng của mình, còn lại phải phối hợp với lực lượng chính qui”, một thành viên trong nhóm hiệp sĩ Tân Bình cho hay.
Trở lại với vấn đề mà dư luận đang quan tâm hiện nay, đó là cơ chế pháp lý rõ ràng, đặc biệt là sự quan tâm, giúp đỡ, phối hợp để các CLB “hiệp sĩ đường phố” tồn tại, hoạt động hiệu quả, những ngày qua, người ta chợt nhớ đến hiệu quả của mô hình này tại Bình Dương. Đại tá Võ Văn Phúc, Phó Giám đốc Công an tỉnh Bình Dương cho hay, mô hình này đến nay đã được nhân rộng trong 91 phường, xã của tỉnh với hàng trăm thành viên tham gia.
Để các CLB này hoạt động, các thành viên trong nhóm phải là bảo vệ dân phố, dân phòng của các phường, xã nên các CLB này đều hoạt động có qui chế thưởng phạt cụ thể, có kinh phí hoạt động.
Hiệp sĩ Nguyễn Thanh Hải, Đội trưởng CLB phòng chống tội phạm phường Phú Hòa cho biết, nhóm có 16 thành viên, cộng tác viên hoạt động truy bắt tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Hàng năm, anh em trong nhóm được Công an tỉnh Bình Dương bồi dưỡng 2 lần cả về nghiệp vụ bắt cướp và huấn luyện võ thuật đối kháng, tự vệ, được trang bị công cụ hỗ trợ. Đồng thời, anh em được tuyên truyền tính pháp lý nên trong quá trình săn bắt cướp tránh được những tình huống nguy hiểm.
Đại tá Nguyễn Hoàng Thao, Giám đốc Công an tỉnh Bình Dương nhận xét, những mô hình CLB phòng chống tội phạm này hoạt động đúng pháp luật nhiều năm nay và mang lại hiệu quả cao, góp phần cùng lực lượng Công an chuyên nghiệp giữ gìn ANTT. Một trong những CLB phòng chống tội phạm hiệu quả là CLB phòng chống tội phạm phường Phú Hòa.
Từ năm 1997 đến nay, CLB này đã khám phá bắt hơn 2.000 vụ phạm pháp hình sự. Để các CLB này hoạt động tốt, những lần họp tổng kết, Công an Bình Dương đều rút kinh nghiệm những mặt được và chưa được sau đó xây dựng những quy chế mới để các CLB hoạt động đúng pháp luật.
Thiếu tướng Phan Anh Minh, Phó Giám đốc Công an TP Hồ Chí Minh cho biết, tại TP Hồ Chí Minh có nhiều nhóm hiệp sĩ hoạt động, đó là hoạt động từ tinh thần hiệp sĩ mà không thông qua một qui chế hay cơ chế xét duyệt nào. Nhiều mô hình “hiệp sĩ đường phố” đóng góp tích cực vào công tác toàn dân bảo vệ ANTT, góp phần cùng lực lượng Công an giữ vững bình yên cuộc sống cho nhân dân. Tuy nhiên do không có qui chế nên khi ra tay nghĩa hiệp, những hiệp sĩ không được sử dụng công cụ hỗ trợ.
Về mặt pháp lý, Công an TP Hồ Chí Minh không tìm thấy căn cứ nào để công nhận, để quản lý mô hình này. Do đó nhiều năm nay, Công an TP Hồ Chí Minh rất day dứt, kiến nghị, đề xuất có một quy định, quy chuẩn đầy đủ cho lực lượng này, nhưng kết quả chưa cụ thể. Ví dụ như mô hình xe ôm tự quản, phòng chống tội phạm nhưng đã xuất hiện nhiều thành viên trong mô hình xe ôm tự quản tiếp tay, che giấu tội phạm.
Nguyên nhân là pháp luật thiếu các quy chế, quy chuẩn nên các nhóm hình thành chủ yếu là tự phát. Họ là những người dân bình thường, tự nguyện tham gia phòng chống tội phạm nhưng lại không được bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn, kỹ năng và quản lý. Điều này rất dễ dẫn đến tình trạng sai phạm, hoạt động lệch lạc…
“Vì thế, dù lực lượng nào cũng phải được bồi dưỡng về kỹ năng, kiến thức pháp luật, quy định rõ những gì được làm, không được làm và xác định rõ giới hạn, chức năng... Thực tế, các thông tin về tội phạm hay xử lý thì các hiệp sĩ cũng như CLB phòng chống tội phạm đều cần sự hỗ trợ của Công an vì nó vượt quá khả năng giải quyết của họ…”, Thiếu tướng Phan Anh Minh nói.
Theo Thiếu tướng Phan Anh Minh, nhiệm vụ giải quyết, xử lý tội phạm là của lực lượng Công an. Nhưng một mình ngành Công an không thể làm tốt được, mà cần sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Trong đó có phong trào toàn dân tham gia phòng chống tội phạm.
“Lãnh đạo Công an TP Hồ Chí Minh rất day dứt vì chưa chuẩn hóa được các đội nhóm hiệp sĩ này. Không phải ai muốn trở thành hiệp sĩ cũng đều đủ tư cách, ít ra thì mặt sức khỏe, đạo đức, tư chất phải xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn rõ ràng về việc này. Cái chúng ta cần nhất hiện nay là một quy chế với các quy chuẩn quy định những hiệp sĩ được làm gì khác với những công dân bình thường”, Thiếu tướng Phan Anh Minh nhấn mạnh.
Theo Luật sư Trần Minh Hùng, Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh, thực tế mô hình “hiệp sĩ” ở đây là tự phát, tự phong, họ như những công dân bình thường khác và họ cũng có nghĩa vụ phòng chống tội phạm như các công dân bình thường khác. Tuy nhiên, họ không phải là cá nhân hay tổ chức đại diện cho Nhà nước thực hiện quyền bắt giữ tội phạm, thực thi quyền do Nhà nước giao, mang tính chuyên môn và nghĩa vụ, do vậy việc họ bắt giữ tội phạm chỉ trong phạm vi tương xứng, phòng vệ và mang tính cấp thiết cùng với đó là sự hỗ trợ kịp thời từ phía cơ quan Nhà nước.
Nếu người bắt tội phạm không may gây ra thương tích trọng thương cho người phạm tội thì tùy tính chất, mức độ, hành vi và sự tương xứng, phòng vệ và mức độ cần thiết, hậu quả mà có bị xử lý hình sự hay không. Thực tế không ít vụ việc gần đây, nhiều người bắt trộm cướp bị xử lý hình sự.
“Theo tôi, vụ này các đối tượng hung hãn, có hung khí nên việc các hiệp sĩ đâm xe là có căn cứ tương xứng với hành vi và mang tính cấp thiết. Đã đến lúc cần có Luật điều chỉnh về vấn đề này và cần trang bị các công cụ hỗ trợ, huấn luyện về chuyên môn, nghiệp vụ bài bản cho họ, trang bị kiến thức cho họ và giao cho họ có được một số quyền hạn nhất định khi bắt tội phạm”, Luật sư Hùng nói.
|
M. Đức - P.Lữ - Đ.Mừng
Nguồn: Báo công an nhân dân