Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng

Dịch vụ tư vấn soạn thảo hợp đồng mẫu theo yêu cầu của doanh nghiệp

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng

Dịch vụ tư vấn soạn thảo hợp đồng mẫu theo yêu cầu của doanh nghiệp

Hợp đồng mẫu được áp dụng phổ biến trong nền kinh tế phát triển. Lợi ích không thể phủ nhận của hợp đồng mẫu là sự gia tăng các hiệu quả về mặt kinh tế, giảm thiểu chi phí giao dịch một cách đáng kể về thời gian và công sức để thương lượng chi tiết từng điều khoản nội dung của từng hợp đồng của mỗi lần giao dịch.

Việc soạn thảo hợp đồng mẫu sẽ giúp các bên sẽ rà soát, thống nhất lại những thỏa thuận đã đạt được từ quá trình đàm phán, các bên chủ thể hợp đồng sẽ kiểm tra lại các điều khoản hợp đồng có tính khả thi hay không? Mục đích của việc soạn thảo hợp đồng là để thực hiện hợp đồng, vì vậy trong hợp đồng cần phải có những nội dung nào để hợp đồng có thể thực hiện. Soạn thảo các điều khoản pháp lý trong hợp đồng sẽ giúp các bên kiểm tra căn cứ pháp lý để hạn chế rủi ro có thể phát sinh, với những hợp đồng có giá trị lớn, đặc biệt là hợp đồng của doanh nghiệp sẻ ảnh hưởng đến nhiều mặt.

Xuất phát từ những vấn đề trên, việc có một hợp đồng theo mẫu là một điều cần thiết, để giảm thiểu thời gian tìm hiểu và soạn thảo. Đặc biệt, sẽ có ích hơn nếu có đội ngũ luật sư đứng sau tham vấn về vấn đề này. Với nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn, Luật Hoàng Anh sẽ hỗ trợ khách hàng toàn diện đối với vấn đề liên quan soạn thảo hợp đồng, giúp khách hàng trong quá trình thương thảo, ký kết, thực hiện hợp đồng trong kinh doanh thương mại và hợp đồng khác trong hoạt động doanh nghiệp.

Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra. Việc tư vấn soạn thảo hợp đồng mẫu theo yêu cầu của doanh nghiệp được Luật Hoàng Anh thực hiện trên các nội dung sau:

- Thực hiện soạn thảo các nội dung của hợp đồng mẫu, đảm bảo được những nội dung cơ bản của một hợp đồng phổ biến như:

1. Soạn thảo các nội dung của hợp đồng mẫu về đối tượng của hợp đồng;

2. Soạn thảo các nội dung của hợp đồng mẫu về số lượng, chất lượng;

3. Soạn thảo các nội dung của hợp đồng mẫu về giá, phương thức thanh toán;

4. Soạn thảo các nội dung của hợp đồng mẫu về thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;

5. Soạn thảo các nội dung của hợp đồng mẫu về quyền, nghĩa vụ của các bên;

6. Soạn thảo các nội dung của hợp đồng mẫu về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;

7. Soạn thảo các nội dung của hợp đồng mẫu về phương thức giải quyết tranh chấp.

Đối với việc soạn thảo hợp đồng mẫu cho doanh nghiệp, Luật Hoàng Anh sẽ thực hiện các công việc như dưới dây:

1. Tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan đến những vấn đề mà doanh nghiệp cần phải có hồ sơ mẫu, tham khảo những hợp đồng áp dụng trong thực tiễn liên quan đến các điều khoản chi tiết;

2. Thực hiện soạn thảo hợp đồng mẫu với những điều khoản chi tiết có lợi cho doanh nghiệp, cũng như có thể sử dụng được lâu dài trong nhiều trường hợp tương tự;

3. Thực hiện công việc thẩm định nội dung trong hợp đồng mẫu thường xuyên để bảo đảm tính hợp pháp của hợp đồng;

4. Cung cấp dịch vụ tư vấn các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng mẫu khác nếu Quý Khách hàng có nhu cầu.

PHẠM VI CUNG CẤP DỊCH VỤ VÀ PHƯƠNG THỨC LIÊN LẠC CỦA LUẬT HOÀNG ANH

Phạm vi cung cấp dịch vụ: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long....

htv999

Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống,Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ đốt nhà 10 người ở TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

 

 

Lợi ích khi được luật sư tư vấn soạn thảo và rà soát hợp đồng

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng

Trong nền kinh tế mở cửa hiện nay, giao kết hợp đồng đem lại rất nhiều khoản lợi nhuận cho các quốc gia. Nhu cầu tư vấn luật hợp đồng cũng ngày càng tăng theo xu thế phát triển của thị trường. Việc nắm vững các kiến thức pháp lý về hợp đồng sẽ giúp cho các bên hạn chế tối đa các tranh chấp trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trong lĩnh vực pháp luật về hợp đồng, Chuyện Tư Vấn Luật phối hợp với đội ngũ luật sư và cộng sự có kết hợp năng động của sức trẻ và bản lĩnh kinh nghiệm đã và đang hỗ trợ, tư vấn, trực tiếp giải quyết cho nhiều khách hàng vấn đề tư vấn soạn thảo, ký kết, giải quyết tranh chấp hợp đồng,…

Hợp đồng là gì?

Hiện nay có rất nhiều khái niệm hợp đồng được các chuyên gia đưa ra, tuy nhiên cách hiểu phổ biến nhất thì hợp đồng là cam kết thỏa thuận giữa hai hay  nhiều bên để làm hoặc không làm một việc trong lĩnh vực nào đó của cuộc sống. Có nhiều loại hợp đồng hiện nay như hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp
đồng thương mại, hợp đồng thuê mặt bằng,…

Lợi ích khi được luật sư tư vấn soạn thảo và rà soát hợp đồng

Đội ngũ luật sư tại Chuyên Tư Vấn Luật với nhiều năm kinh nghiệm trong hoạt động tư vấn pháp luật về các loại giao dịch, hợp đồng bao gồm soạn thảo và rà soát các văn bản liên quan đến vấn đề pháp lý của giao dịch, luôn sẵn sàng hỗ trợ Quý khách hàng một cách nhiệt tình và hiệu quả nhất.

Với kinh nghiệm chuyên sâu trong lĩnh vực cần tư vấn, Luật sư hợp đồng sẽ đồng hành:

  • Tư vấn soạn thảo, điều khoản,… đảm bảo lợi ích hợp pháp của các bên, dự kiến được các rủi ro có thể phát sinh trong tương lai để điều chỉnh hợp đồng phù hợp với thực tiễn và quy định của pháp luật
  • Tư vấn soạn thảo các loại hợp đồng phù hợp với giao dịch
  • Tư vấn các vấn đề pháp lý liên quan giúp hạn chế tối đa các tranh chấp có thể xảy ra

Luật sư tham gia tư vấn giúp hạn chế các tranh chấp xảy ra

Tư vấn pháp luật về hợp đồng

Chuyện Tư Vấn Luật cùng với đội ngũ chuyên viên pháp lý có kiến thức chuyên môn cao, am hiểu sâu sắc pháp luật Việt Nam luôn sẵn sàng hỗ trợ các thủ tục pháp lý liên quan đến lĩnh vực hợp đồng:

  • Tư vấn các quy định của pháp luật cụ thể về từng loại hợp đồng để khách hàng có sự thấu hiểu về mặt pháp lý, đảm bảo việc giao kết hợp đồng được thực hiện một cách có lợi nhất nhưng đảm bảo đúng quy định pháp luật.
  • Đánh giá, tư vấn về lộ trình và chiến lược đàm phán hợp đồng, nghiên cứu tư vấn các cơ sở pháp lý, kiểm tra tính hợp pháp của toàn bộ hồ sơ, cung cấp ý kiến pháp lý chi tiết liên quan đến các thỏa thuận hợp đồng
  • Tư vấn pháp lý về hình thức và xây dựng cấu trúc Hợp đồng, luật điều chỉnh, bảo đảm thực hiện hợp đồng, lựa chọn cơ quan/cơ chế giải quyết tranh chấp, các quy định về giải quyết tranh chấp, xung đột pháp luật, cơ cấu điều khoản, cơ cấu quyền và nghĩa vụ, giải pháp pháp lý tối ưu cho khách hàng về xử lý rủi ro, tranh chấp và nghĩa vụ thuế
  • Thẩm định về pháp lý đối tác ký Hợp đồng, tài sản và đối tượng Hợp đồng, kiểm tra và tư vấn pháp lý các văn kiện Pháp lý liên quan đến Hợp đồng
  • Tư vấn các trường hợp hủy bỏ, chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng; sửa đổi đề nghị, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, thời hạn trả lời chấp nhận
    giao kết hợp đồng
  • Đại diện tham gia đàm phán, ký kết hợp đồng
  • Tư vấn các quy định của pháp luật vềđiều kiện sửa đổi, chấm dứt hợp đồng.
  • Tư vấn về các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình sửa đổi, chấm dứt hợp đồng.
  • Tư vấn giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc sửa đổi, chấm dứt hợp đồng.

Dịch vụ luật sư tham gia tranh tụng tại Tòa án

Các loại hợp đồng Chuyện Tư Vấn Luật thường xuyên tư vấn soạn thảo cho Quý khách hàng

  • Tư vấn soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa;
  • Tư vấn soạn thảo hợp đồng mua bán doanh nghiệp, chuyển nhượng vốn;
  • Tư vấn soạn thảo hợp đồng góp vốn vào công ty;
  • Tư vấn soạn thảo hợp đồng đặt tiền cọc, thuê, mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho, thế chấp đất đai – nhà ở;
  • Tư vấn soạn thảo hợp đồng xây dựng, hợp đồng dịch vụ khác;
  • Tư vấn soạn thảo hợp đồng vay mượn tài sản;
  • Tư vấn soạn thảo hợp đồng lao động;
  • Tư vấn soạn thảo hợp đồng dịch vụ

Tham gia giải quyết tranh chấp

Trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng không tránh khỏi các xung đột pháp lý xảy ra giữa các nên. Giải quyết tranh chấp, xung đột pháp luật cơ cấu điều khoản, cơ cấu quyền và nghĩa vụ, giải quyết pháp lý về xử lý rủi ro,… thì những quyết định đúng đắn về phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu nhất, vừa đảm bảo được quyền và lợi ích giữa các bên là điều mà các bên quan tâm nhất. Đây cũng chính là mục tiêu hàng đầu khi hỗ trợ Quý khách hàng trong lĩnh vực hợp đồng, Chuyện Tư Vấn Luật với nhiều năm kinh nghiệm trong việc giải quyết tranh chấp với các dịch vụ pháp lý:

  • Tư vấn về cách thức giải quyết tranh chấp, đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của các bên tranh chấp. Đưa ra những phương án cụ thể có lợi nhất trong quá trình đàm phán, hòa giải;
  • Hướng dẫn và tư vấn khách hàng trình tự thủ tục khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, điều kiện khởi kiện, tư cách chủ thể và soạn đơn khởi kiện gửi đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp;
  • Kiến nghị các cơ quan tiến hành tố tụng liên quan khi ban hành những quyết định không đúng thủ tục, trình tự,… làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của khách hành;
  • Tiến hành điều tra thu thập chứng cứ – tài liệu, kiểm tra đánh giá chứng cứ – tài liệu để trình trước Tòa;
  • Soạn thảo đơn từ và các giấy tờ liên quan khác cho đương sự;
  • Tham gia tố tụng với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ tại Tòa án;
  • Tham gia nhận ủy quyền khởi kiện tại Tòa án.

21.9

LS TRẦN MINH HÙNG

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống,Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ đốt nhà 10 người ở TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

Phán quyết liên quan đến Tranh chấp tiền tạm ứng án phí trong hợp đồng làm phim

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng

Phán quyết liên quan đến Tranh chấp tiền tạm ứng án phí trong hợp đồng làm phim

 
Mặc dù hợp đồng về dự án liên kết sản xuất phim Hai Deng Fa Shi đã được các bên chính thức ký kết và xác nhận ngày 14 tháng 4 năm 1985, hợp đồng này là vô hiệu vì Bên B (Bị đơn) không phải là chủ thể có thẩm quyền ký một hợp đồng với đối tác nước ngoài để làm phim và các nội dung của hợp đồng vượt quá thẩm quyền của Bị đơn, vi phạm các luật và qui chế liên quan của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trách nhiệm chính trong việc hợp đồng vô hiệu thuộc về Bị đơn. Tuy nhiên Nguyên đơn đã không kiểm tra cẩn thận năng lực pháp lý và thẩm quyền của Bị đơn trước khi ký kết hợp đồng, vì vậy Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm cho sự không cẩn trọng của chính mình.

PHÁN QUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN
TRANH CHẤP VỀ TIỀN TẠM ỨNG
TRONG HỢP ĐỒNG LÀM PHIM
Các bên:
            Nguyên đơn   : Một công ty Hồng Kông - Macao
            Bị đơn            : Một cơ quan văn hoá nghệ thuật Trung Quốc
Các vấn đề được đề cập:
-        Hợp đồng vô hiệu do chủ thể không có thẩm quyền và năng lực ký kết
-        Nghĩa vụ thông báo và giảm thiểu thiệt hại
Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn (Bên A) và Bị đơn (Bên B) ký một hợp đồng sản xuất phim tựa đề “Hai Deng Fa Shi” ngày 13 tháng 4 năm 1985. Phần hợp đồng liên quan đến phương thức hợp tác giữa hai bên quy định Bên A chịu mọi chi phí cho việc làm phim với tổng dự toán khoảng 800.000USD. Bên A chịu trách nhiệm cung cấp các thiết bị quay phim, xe thùng chở đạo cụ và mời một đạo diễn và một thợ chụp ảnh từ Hồng Kông và Macao. Bên B chịu trách nhiệm viết kịch bản, thuê đạo diễn, diễn viên và đoàn phục vụ làm phim, thuê địa điểm, xin cấp các loại giấy phép và hoàn thành mọi thủ tục cần thiết và những công việc hàng ngày khác.
Hợp đồng cũng quy định sau khi ký kết hợp đồng, Bên A phải chuyển 120.000 USD (bao gồm cả 50.000 USD tiền tạm ứng phải chuyển ngay trong ngày ký kết hợp đồng). Bên B phải xin được các giấy phép cần thiết của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan và Phòng tuyên truyền tỉnh Henan và phải thực hiện tất cả các thủ tục để có được bảo lãnh của Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh tại Zheng Zhou trong vòng 15 ngày. Sau khi các thủ tục này hoàn thành, bên A phải chuyển ngay khoản tiền 70.000USD còn lại vào tài khoản của bên B. Trong vòng năm ngày kể từ khi khởi quay (dự tính là vào tháng 5 năm 1985), bên A phải chuyển 180.000USD vào tài khoản của bên B. Phần đầu tư còn lại sẽ được thanh toán thành nhiều lần để bảo đảm cho các chi phí làm phim.
Ngày 13 tháng 4 năm 1985, ngày ký kết hợp đồng, Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn 50.000 USD tiền tạm ứng thông qua Ngân hàng Macao Nantong. Ngày 3 tháng 5 năm 1985, Bị đơn ký một văn bản với một công ty sản xuất phim ở Guangzhou để cùng sản xuất phim Hai Deng Fa Shi.
Ngày 8 tháng 5 năm 1985, Nguyên đơn nhận được từ Bị đơn văn bản trả lời cho phép công ty Hồng Kông - Ma Cao được vận chuyển các thiết bị để làm phim do Chính quyền nhân dân tỉnh Henan cấp ngày 26 tháng 4 năm 1985,  một “Bản hướng dẫn chấp thuận báo cáo của Cơ quan văn hoá và nghệ thuật và Công ty Hồng Kông - Ma Cao” do Phòng tuyên truyền tỉnh Henan cấp và “Bảo lãnh không huỷ ngang cho Hợp đồng” số ZT 535406 do Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh tại Zheng Zhou cấp. Tuy nhiên, ngày cấp bảo lãnh lại là ngày 10 tháng 6 năm 1985.
Ngày 31 tháng 7 năm 1985 Bị đơn gửi văn thư cho Nguyên đơn giục Nguyên đơn chuyển cho mình phần 70.000USD còn lại trong khoản đầu tư đầu tiên 120.000USD và nói rằng nếu Nguyên đơn không chuyển tiền trong vòng 10 ngày thì coi như đã vi phạm hợp đồng. Nguyên đơn không trả lời việc này bằng văn bản.
Ngày 4 tháng 10 năm 1985 Nguyên đơn và một công ty sản xuất phim ký một bản dự thảo với tên gọi “Các sửa đổi đối với hợp đồng sản xuất phim màu màn ảnh rộng Hai Deng Fa Shi-Dự án hợp tác giữa công ty Hồng Kông - Ma Cao và Cơ quan Văn hoá và Nghệ thuật”. Bản dự thảo này ghi rõ:
1.                                       Hợp đồng ký bởi các bên là vô hiệu và thay vào đó bộ phim được thực hiện giữa Nguyên đơn và công ty sản xuất phim;
2.                                       Công ty sản xuất phim chịu trách nhiệm xin tất cả các giấy phép và phê chuẩn và thực hiện tất cả các thủ tục cần thiết và nộp báo cáo cho Bộ Tuyên truyền;
3.                                       Khoản tạm ứng 50.000 USD đã được chuyển cho Bị đơn sẽ được chuyển lại cho công ty sản xuất phim, v.v...
Bản dự thảo cũng qui định dự thảo sẽ được chính thức ký kết khi đã xin được tất cả các giấy phép và đã thông qua tất cả các thủ tục cần thiết. Bản dự thảo sẽ tự động chấm dứt nếu không xin được tất cả các giấy phép và phê chuẩn cần thiết trong thời hạn hai tháng. Vì công ty sản xuất phim đã không xin được tất cả các giấy phép và phê chuẩn cần thiết nên sau đó bản dự thảo tự động chấm dứt.
Ngày 7 tháng 8, ngày 8 tháng 9, ngày 27 tháng 9 và ngày 2 tháng 12 năm 1987 Nguyên đơn gửi văn thư cho Bị đơn đòi hoàn trả 50.000USD. Bị đơn không trả khoản tiền tạm ứng này. Do đó Nguyên đơn đã kiện ra Uỷ ban trọng tài.
Nguyên đơn lý luận như sau:
1.                             Việc không thực hiện được hợp đồng là do Bị đơn không xin được các giấy phép và phê chuẩn cần thiết. Bản hướng dẫn mà Bị đơn cung cấp cho Nguyên đơn được cấp trước thời điểm ký kết hợp đồng. Đây rõ ràng là một sự giả mạo. Văn bản trả lời của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan chỉ cho phép công ty đưa các thiết bị ảnh liên quan vào Trung Quốc chứ không phải là giấy phép cho dự án liên doanh làm phim. Các giấy phép và phê chuẩn không phù hợp với các qui định của hợp đồng.
2.                             Hợp đồng đã vô hiệu và Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc này vì các nguyên nhân sau đây: Bị đơn là một doanh nghiệp thuộc sở hữu tập thể và, theo các luật và qui định của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và của Bộ Phát thanh, Truyền hình và Điện ảnh, Bị đơn không phải là chủ thể có năng lực ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài cho các dự án liên kết làm phim. Việc liên kết làm phim với Nguyên đơn vượt quá thẩm quyền của Bị đơn, vì vậy hợp đồng ký kết giữa các bên liên quan đến dự án liên doanh làm phim Hai Deng Fa Shi là bất hợp pháp và vô hiệu.
3.                             Vì hợp đồng vô hiệu nên Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn 50.000USD tiền đặt cọc và, vì Uỷ ban Kế hoạch và Hội đồng Văn hoá của Thành phố Kaifeng đã bảo lãnh cho Bị đơn (theo ngoại tệ và nhân dân tệ) nên họ phải chịu trách nhiệm chung và riêng rẽ.
Do đó, Nguyên đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài ra phán quyết rằng:
1.                                       Hợp đồng ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn là vô hiệu;
2.                                       Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn 50.000USD tiền tạm ứng cộng với tiền lãi tính từ ngày tạm ứng đến ngày nộp đơn khởi kiện.
3.                                       Phí trọng tài, phí luật sư và những thiệt hại khác về kinh tế sẽ do Bị đơn chịu.
Bị đơn giải trình như sau:
1.                             Hợp đồng này có hiệu lực và trách nhiệm đối với việc không thực hiện hợp đồng gắn liền với việc vi phạm hợp đồng của Nguyên đơn. Hợp đồng này là một thoả thuận bằng văn bản giữa các bên đạt được thông qua thương lượng và đáp ứng tất cả các yêu cầu của các luật liên quan. Vào thời điểm ký kết hợp đồng, có rất nhiều hợp đồng liên kết hợp tác giữa Trung Quốc với nước ngoài và không có qui định thống nhất về vấn đề này. Hợp đồng qui định một cách rõ ràng rằng Bị đơn sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình nếu Bị đơn xin được các giấy phép của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan, Phòng Tuyên truyền tỉnh Henan và bảo lãnh của Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh Zheng Zhou. Bị đơn đã có được các giấy tờ này và đã nhanh chóng chuyển cho Nguyên đơn. Theo hợp đồng, Nguyên đơn đáng lẽ phải tiếp tục chuyển tiền. Tuy nhiên, Nguyên đơn đã không chỉ liên tục trì hoãn việc chuyển tiền mà còn ký một văn bản dự thảo với công ty sản xuất phim để sửa đổi hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn mà không có sự chấp thuận của Bị đơn. Hành vi này là một sự vi phạm hợp đồng.
2.                             Thậm chí nếu hợp đồng vô hiệu thì trách nhiệm vẫn thuộc về Nguyên đơn. Vì hợp đồng được ký bởi cả hai bên nên suy ra là nếu hợp đồng vô hiệu thì cả hai bên cùng có lỗi. Tháng 10 tháng 1985 khi Nguyên đơn ký dự thảo với công ty sản xuất phim, rõ ràng Nguyên đơn đã biết là hợp đồng vô hiệu nhưng đã không thông báo gì cho Bị đơn. Tuy nhiên, cho đến thời điểm đó thì Bị đơn đã sử dụng hết số tiền tạm ứng 50.000USD vào các hoạt động về ảnh, ngoài ra Bị đơn đã phải chi ra rất nhiều tiền của và công sức. Vì vậy Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm chính cho các thiệt hại về kinh tế.
Vì vậy Bị đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài bác các yêu cầu của Nguyên đơn.
Uỷ ban trọng tài cho rằng:
Mặc dù hợp đồng về dự án liên kết sản xuất phim Hai Deng Fa Shi đã được các bên chính thức ký kết và xác nhận ngày 14 tháng 4 năm 1985, hợp đồng này là vô hiệu vì Bên B (Bị đơn) không phải là chủ thể có thẩm quyền ký một hợp đồng với đối tác nước ngoài để làm phim và các nội dung của hợp đồng vượt quá thẩm quyền của Bị đơn, vi phạm các luật và qui chế liên quan của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trách nhiệm chính trong việc hợp đồng vô hiệu thuộc về Bị đơn. Tuy nhiên Nguyên đơn đã không kiểm tra cẩn thận năng lực pháp lý và thẩm quyền của Bị đơn trước khi ký kết hợp đồng, vì vậy Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm cho sự không cẩn trọng của chính mình.
Ngày 4 tháng 10 năm 1985 khi Nguyên đơn ký một văn bản dự thảo với công ty sản xuất phim, Nguyên đơn đã biết rằng hợp đồng ký kết với Bị đơn là vô hiệu. Nguyên đơn đáng lẽ phải thông báo với Bị đơn về việc này để hạn chế thiệt hại. Chỉ đến tháng 11 năm 1988 Nguyên đơn mới yêu cầu luật sư của mình thông báo cho Bị đơn biết. Tuy nhiên, đến lúc này Bị đơn đã thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình và do đó phải chịu một số thiệt hại nhất định về kinh tế. Vì Nguyên đơn đã không thực hiện các biện pháp cần thiết để hạn chế thiệt hại nên Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm theo các quy định của pháp luật Trung Quốc.
Kết quả điều tra của Uỷ ban trọng tài cho thấy trong khoản tiền tạm ứng 50.000USD (tương đương với 140.950 Rmb) mà Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn, 98.000 Rmb đã được Bị đơn chi cho hệ thống thiết bị và các phụ liệu chụp ảnh ngày 4 tháng 4 năm 1986; 22.000Rmb đã được đại diện của Nguyên đơn lấy lại vào ngày 8 tháng 6 năm 1985 với lý do thù lao làm phim; và 20.950 Rbm còn lại cùng với mấy nghìn Rbm mà Bị đơn tự bỏ ra đã được sử dụng để chi cho các chi phí khác nhau trong quá trình chuẩn bị làm phim, bao gồm cả chi phí phòng ở và lương cho nhân viên. Như vậy, toàn bộ số tiền 50.000USD tạm ứng mà Nguyên đơn giao cho Bị đơn đã được sử dụng hết.
Việc điều tra của Uỷ ban trọng tài cũng cho thấy giấy bảo lãnh mà Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh Zheng Zhou cấp đã không có hiệu lực vì Nguyên đơn không chuyển khoản tiền thù lao 120.000USD đầu tiên vào tài khoản của Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh Keifeng. Giấy bảo lãnh do Uỷ ban Kế hoạch Keifeng và Hội đồng Văn hoá Keifeng cũng không có hiệu lực vì Nguyên đơn không chuyển 60.000USD vào tài khoản của Uỷ ban Kế hoạch Keifeng như yêu cầu của người bảo lãnh. Do đó, Nguyên đơn không thể đòi hỏi Uỷ ban Kế hoạch Keifeng và Hội đồng Văn hoá Keifeng chịu trách nhiệm chung trong việc hoàn lại tiền bằng ngoại tệ hay nhân dân tệ.
Do đó Uỷ ban trọng tài quyết định rằng những thiệt hại duy nhất mà Nguyên đơn có thể đòi trong trường hợp này là hệ thống thiết bị và phụ liệu ảnh DXC - M3PK mà Bị đơn sẽ phải hoàn lại cho Nguyên đơn. Uỷ ban trọng tài bác các yêu cầu còn lại.
Phán quyết của trọng tài:
Uỷ ban trọng tài quyết định như sau:
-        Hợp đồng ký ngày 13 tháng 4 năm 1985 giữa các bên về dự án làm phim màn ảnh rộng là vô hiệu;
-        Trong vòng 60 ngày Bị đơn phải hoàn trả lại cho Nguyên đơn các thiết bị và phụ liệu ảnh DXC - M3PK mua ngày 2 tháng 4 năm 1986. Các chi phí đóng gói, vận chuyển và bảo hiểm cho việc trả lại thiết bị sẽ do Bị đơn chịu;
-        Bác các yêu cầu khác của Nguyên đơn;
-        Phí trọng tài mỗi bên chịu một nửa.

 

 

Luật sư tư vấn góp vốn thành lập công ty

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng

Trường hợp đặt ra là Công ty A góp vốn điều lệ là tiền mặt. Nay có góp thêm bằng tài sản. Như vậy thì trong vốn điều lệ có ghi giá trị tài sản không hay chúng ta quy hết thành tiền mặt?

Thứ 2, Công ty có 2 thành viên, sau này có người thứ 3 là giám đốc thuê ngoài thì trong phần vốn điều lệ này có thể hiện thành viên thứ 3 là giám đốc đó không?

Đối với trường họp này, Căn cứ theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 thì nội dung điều lệ doanh nghiệp phải quy định phần vốn góp và giá trị phần vốn góp của các thành viên nên có thể ghi cụ thể loại tài sản góp vốn tương ứng (ví dụ: công ty có vốn điều lệ 10 tỷ, thành viên A góp vốn bằng quyền sử dụng đất, sở hữu 30% vốn điều lệ công ty thì ghi rõ phần vốn góp của thành viên A là 3 tỷ chiếm 30% vốn điều lệ, loại tài sản góp vốn là quyền sử dụng đất).

Có thể lưu ý việc ghi này chỉ mang tính chất thể hiện, còn về nguyên tắc thì người này sở hữu vẫn là vốn góp của doanh nghiệp, còn những tài sản khi đã góp vào công ty thì thuộc về sở hữu công ty.

Ngoài ra, sổ đăng ký thành viên, danh sách thành viên phải ghi cụ thể phần vốn góp, giá trị vốn đã góp, thời điểm góp vốn, loại tài sản góp vốn, số lượng, giá trị của từng loại tài sản góp vốn của từng thành viên.

Đối với giám đốc thuê làm việc theo hợp đồng lao động, không phải là thành viên góp vốn thì trong phần vốn điều lệ, danh sách thành viên không có người này.

21.6

<iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/BupbJLCgYC0" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống,Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ đốt nhà 10 người ở TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

 

Kỹ năng soạn thảo hợp đồng thương mại

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tư Vấn Hợp Đồng

Kỹ năng soạn thảo hợp đồng thương mại

 
 

Kỹ năng soạn thảo hợp đồng trong thương mại. Hầu hết các công ty ở các nước phát triển luôn đề cao quy trình soạn thảo và ký kết hợp đồng, hợp đồng thương mại của họ rất chi tiết, chặt chẽ và dự liệu cả những tình huống hiếm khi xảy ra. Ví dụ: ông Bill Gate, trong một lần phỏng vấn các ứng viên thi tuyển vào Tập đoàn Microsoft đã đặt câu hỏi: “Theo các bạn đâu là yếu tố duy trì sự ổn định và thành công của các hoạt động kinh doanh ngày nay? ” Một ứng viên tiêu biểu đã trả lời: “Đó chính là tính chặt chẽ của hợp đồng”. Nhiều người khi đó đã nghi ngờ tính nghiêm túc trong câu trả lời của ứng viên này, nhưng Bill Gate không nghĩ vậy. Ông đã cho ứng viên này điểm tối đa và nhận anh ta vào làm việc.

Trong khi đa số các Công ty của Việt Nam hiện nay chưa quan tâm nhiều đến vấn đề này, vẫn sử dụng những mẫu hợp đồng khuôn sáo, đơn điệu – “năm câu ba điều”, khó hiểu và thậm chí lạc hậu so với pháp luật hiện hành. Hậu quả là khi thực hiện hợp đồng rất khó khăn, dễ xảy ra tranh chấp và thường bị thua khi kiện tụng. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân: văn hóa kinh doanh trọng tín hơn trọng lý, quy mô kinh doanh còn nhỏ, chưa có bài học đau xót trong giao thương quốc tế nên chưa sợ…đặc biệt là còn thiếu hiểu biết pháp luật và kỹ năng soạn thảo hợp đồng thương mại. Đó cũng chính là lý do tác giả viết bài này.

1. Những điểm chung cần quan tâm khi soạn thảo hợp đồng thương mại

a) Soạn thảo Dự thảo hợp đồng trước khi đàm phán:

Soạn dự thảo hợp đồng (bước 1), đàm phán, sửa đổi bổ sung dự thảo (bước 2), hòan thiện – ký kết hợp đồng (bước 3) là một quy trình cần thiết. Soạn dự thảo hợp đồng giúp cho doanh nghiệp văn bản hóa những gì mình muốn, đồng thời dự liệu những gì đối tác muốn trước khi đàm phán. Nó giống như một bản kế hoạch cho việc đàm phán, khi có một dự thảo tốt coi như đã đạt 50% công việc đàm phán và ký kết hợp đồng. Nếu bỏ qua bước 1 chỉ đàm phán sau đó mới soạn thảo hợp đồng thì giống như vừa xây nhà vừa vẽ thiết kế, nên thường dẫn đến thiếu sót, sơ hở trong hợp đồng, đặc biệt đối với những thương vụ lớn.

Trên thị trường hiện nay có rất nhiều sách viết về hợp đồng và thường kèm theo nhiều mẫu hợp đồng các loại. Ví dụ: cuốn Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư, do TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên). Doanh nghiệp nên dựa vào các mẫu hợp đồng đó để xem như là những gợi ý cho việc soạn dự thảo hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng được ký kết trên nguyên tắc tự do và bình đẳng, do đó nội dung của mỗi hợp đồng cụ thể luôn có sự khác nhau. Bởi nó phụ thuộc vào ý chí của các bên và đòi hỏi thực tiễn của việc mua bán mỗi loại hàng hoá, dịch vụ là khác nhau, trong các điều kiện, hoàn cảnh, thời điểm khác nhau. Đăc biệt phải xác định (dự liệu) những rủi ro kinh doanh nào có thể hiện diện trong các giao dịch của doanh nghiệp và loại bỏ hay giảm thiểu những rủi ro đó bằng việc sử dụng các điều khoản hợp đồng; điều này các hợp đồng mẫu thường ít khi đề cập. Ví dụ: khi mua hàng hóa, phải dự liệu đến cả những tình huống hiếm khi xảy ra: hàng giả, hàng nhái; gặp bão, lụt trong quá trình vận chuyển, giao hàng; khi tranh chấp kiện tụng thì tiền phí luật sư bên nào chịu; những thiệt hại gián tiếp bên vi phạm có phải chịu không…? Do vậy không thể có một mẫu hợp đồng nào là chuẩn mực, nó thường thừa hoặc thiếu đối với một thương vụ cụ thể. Doanh nghiệp phải phải sửa cho phù hợp theo ý muốn của hai bên, đừng lạm dụng mẫu – chỉ điền một vài thông số và hoàn tất bản dự thảo hợp đồng.

b) Thông tin xác định tư cách chủ thể của các bên:

Doanh nghiệp và các cá nhân, tổ chức khác có quyền tham gia ký kết hợp đồng thương mại, nhưng để xác định được quyền hợp pháp đó và tư cách chủ thể của các bên thì cần phải có tối thiểu các thông tin sau:

– Đối với tổ chức, doanh nghiệp: Tên, Trụ sở, Giấy phép thành lập và người đại diện. Các nội dung trên phải ghi chính xác theo Quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép đầu tư của doanh nghiệp. Các bên nên xuất trình, kiểm tra các văn bản, thông tin này trước khi đàm phán, ký kết để đảm bảo hợp đồng ký kết đúng thẩm quyền.

– Đối với cá nhân: Tên, số chứng minh thư và địa chỉ thường trú. Nội dung này ghi chính xác theo chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc hộ khẩu và cũng nên kiểm tra trước khi ký kết.

c) Tên gọi hợp đồng:

Tên gọi hợp đồng thường được sử dụng theo tên loại hợp đồng kết hợp với tên hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ: tên loại là hợp đồng mua bán, còn tên của hàng hoá là xi măng, ta có Hợp đồng mua bán + xi măng hoặc Hợp đồng dịch vụ + khuyến mại. Hiện nhiều doanh nghiệp vẫn còn thói quen sử dụng tên gọi “HỢP ĐỒNG KINH TẾ” theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989) nhưng nay Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã hết hiệu lực, nên việc đặt tên này không còn phù hợp. Bộ luật dân sự năm 2005 đã dành riêng Chương 18 để quy định về 12 loại hợp đồng thông dụng, Luật thương mại năm 2005 cũng quy định về một số loại hợp đồng, nên chúng ta cần kết hợp hai bộ luật này để đặt tên hợp đồng trong thương mại cho phù hợp.

d) Căn cứ ký kết hợp đồng:

Phần này các bên thường đưa ra các căn cứ làm cơ sở cho việc thương lượng, ký kết và thực hiện hợp đồng; có thể là văn bản pháp luật điều chỉnh, văn bản uỷ quyền, nhu cầu và khả năng của các bên. Trong một số trường hợp, khi các bên lựa chọn một văn bản pháp luật cụ thể để làm căn cứ ký kết hợp đồng thì được xem như đó là sự lựa chọn luật điều chỉnh. Ví dụ: một doanh nghiệp Việt Nam ký hợp đồng mua bán hàng hoá với một doanh nghiệp nước ngoài mà có thoả thuận là: Căn cứ vào Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 của Việt Nam để ký kết, thực hiện hợp đồng thì hai luật này sẽ là luật điều chỉnh đối với các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp (nếu có). Do đó cũng phải hết sức lưu ý khi đưa các văn bản pháp luật vào phần căn cứ của hợp đồng, chỉ sử dụng khi biết văn bản đó có điều chỉnh quan hệ trong hợp đồng và còn hiệu lực.

e) Hiệu lực hợp đồng:

Nguyên tắc hợp đồng bằng văn bản mặc nhiên có hiệu lực kể từ thời điểm bên sau cùng ký vào hợp đồng, nếu các bên không có thỏa thuận hiệu lực vào thời điểm khác; Ngoại trừ một số loại hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, như: hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển nhượng dự án bất động sản, hợp đồng chuyển giao công nghệ… Các bên phải hết sức lưu ý điều này bởi vì hợp đồng phải có hiệu lực mới phát sinh trách nhiệm pháp lý, ràng buộc các bên phải thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng.

Liên quan đến hiệu lực thi hành của hợp đồng thương mại thì vấn đề người đại diện ký kết (người ký tên vào bản hợp đồng) cũng phải hết sức lưu ý, người đó phải có thẩm quyền ký hoặc người được người có thẩm quyền ủy quyền. Thông thường đối với doanh nghiệp thì người đại diện được xác định rõ trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép đầu tư. Cùng với chữ ký của người đại diện còn phải có đóng dấu (pháp nhân) của tổ chức, doanh nghiệp đó. Về thẩm quyền ký kết hợp đồng thương mại nếu nghiên cứu sâu rộng thì cũng còn rất nhiều vấn đề phải bàn, bạn đọc có thể tham khảo thêm cuốn Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư, do TS. Nguyễn Thị Dung (chủ biên).

2. Kỹ năng soạn thảo một số điều khoản quan trọng của hợp đồng thương mại

Thông thường để một văn bản hợp đồng được rõ ràng, dễ hiểu thì người ta chia các vấn đề ra thành các điều khoản hay các mục, theo số thứ tự từ nhỏ đến lớn. Trong phần này, tác giả đưa ra những lưu ý, kỹ năng khi soạn thảo một số vấn đề (điều khoản) quan trọng thường gặp trong hợp đồng thương mại.

a) Điều khoản định nghĩa:

Điều khoản định nghĩa được sử dụng với mục đích định nghĩa (giải thích) các từ, cụm từ được sử dụng nhiều lần hoặc cần có cách hiểu thống nhất giữa các bên hoặc các ký hiệu viết tắt. Điều này thường không cần thiết với những hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ thông thường phục vụ các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Nhưng nó rất quan trọng đối với hợp đồng thương mại quốc tế, hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng tư vấn giám sát xây dựng; bởi trong các hợp đồng này có nhiều từ, cụm từ có thể hiểu nhiều cách hoặc từ, cụm từ chuyên môn chỉ những người có hiểu biết trong lĩnh vực đó mới hiểu. Ví dụ: “pháp luật”, “hạng mục công trình”, “quy chuẩn xây dựng”. Do vậy để việc thực hiện hợp đồng được dễ dàng, hạn chế phát sinh tranh chấp các bên phải làm rõ (định nghĩa) ngay từ khi ký kết hợp đồng chứ không phải đợi đến khi thực hiện rồi mới cùng nhau bàn bạc, thống nhất cách hiểu. Mặt khác khi có tranh chấp, kiện tụng xảy ra thì điều khỏan này giúp cho những người xét xử hiểu rõ những nội dung các bên đã thỏa thuận và ra phán quyết chính xác.

b) Điều khoản công việc:

Trong hợp đồng dịch vụ thì điều khoản công việc (dịch vụ) mà bên làm dịch vụ phải thực hiện là không thể thiếu. Những công việc này không những cần xác định một cách rõ ràng, mà còn phải xác định rõ: cách thức thực hiện, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của người trực tiếp thực hiện công việc, kết quả sau khi thực hiện dịch vụ. Ví dụ: trong Hợp đồng tư vấn và quản lý dự án, không những cần xác định rõ công việc tư vấn, mà còn phải xác định rõ: cách thức tư vấn bằng văn bản, tư vấn theo quy chuẩn xây dựng của Việt Nam, người trực tiếp tư vấn phải có chứng chỉ tư vấn thiết kế xây dựng, số năm kinh nghiệm tối thiểu là 5 năm, đã từng tham gia tư vấn cho dự án có quy mô tương ứng. Có như vậy thì chất lượng của dịch vụ, kết quả của việc thực hiện dịch vụ mới đáp ứng được mong muốn của bên thuê dịch vụ. Nếu không làm được điều này bên thuê dịch vụ thường thua thiệt và tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng là khó tránh khỏi.

c) Điều khoản tên hàng:

Tên hàng là nội dung không thể thiếu được trong tất cả các hợp đồng mua bán hàng hóa. Để thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng và hạn chế tranh chấp phát sinh, tên hàng cần được xác định một cách rõ ràng. Hàng hoá thường có tên chung và tên riêng. Ví dụ: hàng hoá – gạo (tên chung), gạo tẻ, gạo nếp (tên riêng). Nên khi xác định tên hàng phải là tên riêng, đặc biệt với các hàng hoá là sản phẩm máy móc thiết bị. Tuỳ từng loại hàng hoá mà các bên có thể lựa chọn một hoặc nhiều cách xác định tên hàng sau đây cho phù hợp: Tên + xuất xứ; tên + nhà sản xuất; tên + phụ lục hoặc Catalogue; tên thương mại; tên khoa học; tên kèm theo công dụng và đặc điểm; tên theo nhãn hàng hoá hoặc bao bì đóng gói.

Lưu ý: Không phải tất cả các loại hàng hoá đều được phép mua bán trong thương mại mà chỉ có những loại hàng hoá không bị cấm kinh doanh mới được phép mua bán. Ngoài ra đối với những hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện, việc mua bán chỉ được thực hiện khi hàng hoá và các bên mua bán hàng hoá đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Vấn đề này hiện nay được quy định tại một số văn bản sau: Luật thương mại 2005 tại các điều: Điều 25, Điều 26, Điều 32, Điều 33; Nghị định số: 59/NĐ-CP ngày 12/06/2006 về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện; Nghị định số:12/NĐ – CP ngày 23/01/2006 về mua bán, gia công, đại lý hàng hoá quốc tế và Thông tư số: 04/TT-BTM ngày 06/04/2006.

d) Điều khoản chất lượng hàng hoá:

Chất lượng hàng hoá kết hợp cùng với tên hàng sẽ giúp các bên xác định được hàng hoá một cách rõ ràng, chi tiết. Trên thực tế, nếu điều khoản này không rõ ràng thì rất khó thực hiện hợp đồng và rất dễ phát sinh tranh chấp. Dưới góc độ pháp lý “chất lượng sản phẩm, hàng hoá là: tổng thể những thuộc tính, những chỉ tiêu kỹ thuật, những đặc trưng của chúng, được xác định bằng các thông số có thể đo được, so sánh được phù hợp với các điều kiện hiện có, thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội và của cá nhân trong những điều kiện sản xuất, tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm hàng hoá” (Điều 3, Nghị Định số: 179/NĐ-CP ngày 21/10/2004 quy định quản lý Nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá).

Nói chung chất lượng sản phẩm, hàng hoá được thể hiện thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật và những đặc trưng của chúng. Muốn xác định được chất lượng hàng hoá thì tuỳ theo từng loại hàng hoá cụ thể để xác định, dựa vào các chỉ tiêu về cơ lý, các chỉ tiêu về hoá học hoặc các đặc tính khác của hàng hoá đó.

Nếu các bên thoả thuận chất lượng hàng hoá theo một tiêu chuẩn chung của một quốc gia hay quốc tế thì có thể chỉ dẫn tới tiêu chuẩn đó mà không cần phải diễn giải cụ thể. Ví dụ: các bên thoả thuận: “chất lượng da giầy theo tiêu chuẩn Việt Nam theo Quyết định số: 15/QĐ- BCN, ngày 26/05/2006 về việc ban hành tiêu chuẩn ngành Da – Giầy”. Văn bản này có thể đưa vào mục tài liệu kèm theo của hợp đồng.

e) Điều khoản số lượng (trọng lượng):

Điều khoản này thể hiện mặt lượng của hàng hoá trong hợp đồng, nội dung cần làm rõ là: đơn vị tính, tổng số lượng hoặc phương pháp xác định số lượng. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán đá xây dựng để xác định số lượng các bên có thể lựa chọn một trong các cách sau: theo trọng lượng tịnh (kilôgam, tạ, tấn), theo mét khối, theo toa xe, toa tàu, hay theo khoang thuyền.

Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì cần phải quy định cụ thể cách xác định số lượng và đơn vị đo lường bởi hệ thống đo lường của các nước là có sự khác biệt. Đối với những hàng hoá có số lượng lớn hoặc do đặc trưng của hàng hoá có thể tự thay đổi tăng, giảm số lượng theo thời tiết thì cũng cần quy định một độ dung sai (tỷ lệ sai lệch) trong tổng số lượng cho phù hợp.

f) Điều khoản giá cả:

Các bên khi thoả thuận về giá cả cần đề cập các nội dung sau: đơn giá, tổng giá trị và đồng tiền thanh toán. Về đơn giá có thể xác định giá cố định hoặc đưa ra cách xác định giá (giá di động). Giá cố định thường áp dụng với hợp đồng mua bán loại hàng hoá có tính ổn định cao về giá và thời hạn giao hàng ngắn. Giá di động thường được áp dụng với những hợp đồng mua bán loại hàng giá nhạy cảm (dễ biến động) và được thực hiện trong thời gian dài. Trong trường hợp này người ta thường quy định giá sẽ được điều chỉnh theo giá thị trường hoặc theo sự thay đổi của các yếu tố tác động đến giá sản phẩm.

Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán sắt xây dựng (sắt cây phi 16), hai bên đã xác định giá là: 200.000 đồng/cây nhưng loại thép cây này được sản xuất từ nguyên liệu thép nhập khẩu và giá thép nhập khẩu bên bán không làm chủ được nên đã bảo lưu điều khoản này là: “Bên bán có quyền điều chỉnh giá tăng theo tỷ lệ % tăng tương ứng của giá thép nguyên liệu nhập khẩu.”

g) Điều khoản thanh toán:

Phương thức thanh toán là cách thức mà các bên thực hiện nghĩa vụ giao, nhận tiền khi mua bán hàng hoá. Căn cứ vào đặc điểm riêng của hợp đồng, mối quan hệ, các điều kiện khác mà các bên có thể lựa chọn một trong ba phương thức thanh toán sau đây cho phù hợp:

Phương thức thanh toán trực tiếp: khi thực hiện phương thức này các bên trực tiếp thanh toán với nhau, có thể dùng tiền mặt, séc hoặc hối phiếu. Các bên có thể trực tiếp giao nhận hoặc thông qua dịch vụ chuyển tiền của Bưu Điện hoặc Ngân hàng. Phương thức này thường được sử dụng khi các bên đã có quan hệ buôn bán lâu dài và tin tưởng lẫn nhau, với những hợp đồng có giá trị không lớn.

Phương thức nhờ thu và tín dụng chứng từ (L/C) là hai phương thức được áp dụng phổ biến đối với việc mua bán hàng hoá quốc tế, thực hiện phương thức này rất thuận tiện cho cả bên mua và bên bán trong việc thanh toán, đặc biệt là đảm bảo được cho bên mua lấy được tiền khi đã giao hàng. Về thủ tục cụ thể thì Ngân hàng sẽ có trách nhiệm giải thích và hướng dẫn các bên khi lựa chọn phương thức thanh toán này.

Lưu ý: Việc thanh toán trực tiếp trong các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các thương nhân Việt Nam với nhau hoặc với cá nhân, tổ chức khác trên lãnh thổ Việt Nam chỉ được sử dụng đồng tiền Việt Nam chứ không được sử dụng các đồng tiền của quốc gia khác, đồng tiền chung Châu Âu (ngoại tệ), theo Điều 4, Điều 22 – Pháp lệnh ngoại hối – 2005.

h) Điều khoản phạt vi phạm:

Phạt vi phạm là một loại chế tài do các bên tự lựa chọn, nó có ý nghĩa như một biện pháp trừng phạt, răn đe, phòng ngừa vi phạm hợp đồng, nhằm nâng cao ý thức tôn trọng hợp đồng của các bên. Khi thoả thuận các bên cần dựa trên mối quan hệ, độ tin tưởng lẫn nhau mà quy định hoặc không quy định về vấn đề phạt vi phạm. Thông thường, với những bạn hàng có mối quan hệ thân thiết, tin cậy lẫn nhau, uy tín của các bên đã được khẳng định trong một thời gian dài thì họ không quy định (thoả thuận) điều khoản này. Còn trong các trường hợp khác thì nên có thoả thuận về phạt vi phạm.

Mức phạt thì do các bên thoả thuận, có thể ấn định một số tiền phạt cụ thể hoặc đưa ra cách thức tính tiền phạt linh động theo % giá trị phần hợp đồng vi phạm. Theo Bộ luật dân sự (Điều 422): “Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm có nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm; mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận”. Nhưng theo Luật thương mại (Điều 301) thì quyền thoả thuận về mức phạt vi phạm của các bên bị hạn chế, cụ thể: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm”. Do vậy, các bên khi thoả thuận về mức phạt phải căn cứ vào quy định của Luật thương mại để lựa chọn mức phạt trong phạm vi từ 8% trở xuống, nếu các bên thoả thuận mức phạt lớn hơn (ví dụ 12%) thì phần vượt quá (4%) được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô hiệu.

Các trường hợp vi phạm bị áp dụng chế tài phạt các bên cũng có thể thoả thuận theo hướng cứ vi phạm các thoả thuận trong hợp đồng là bị phạt hoặc chỉ một số vi phạm cụ thể mới bị phạt. Ví dụ: thoả thuận là: “Nếu bên bán vi phạm về chất lượng hàng hoá thì sẽ bị phạt 6% giá trị phần hàng hoá không đúng chất lượng. Nếu hết thời hạn thanh toán mà bên mua vẫn không trả tiền thì sẽ bị phạt 5% của số tiền chậm trả”.

j) Điều khoản bất khả kháng:

Bất khả kháng là sự kiện pháp lý nảy sinh ngoài ý muốn chủ quan của các bên, ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng đã ký. Đó là các sự kiện thiên nhiên hay chính trị xã hội như: bão, lũ lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, chiến tranh, bạo động, đình công, khủng hoảng kinh tế. Đây là các trường hợp thường gặp làm cho một hoặc cả hai bên không thể thực hiện được hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ của mình. Khi một bên vi phạm hợp đồng do gặp sự kiện bất khả kháng thì pháp luật không buộc phải chịu trách nhiệm về tài sản (không bị phạt vi phạm, không phải bồi thường thiệt hại).

Trên thực tế, nếu không thoả thuận rõ về bất khả kháng thì rất dễ bị bên vi phạm lợi dụng bất khả kháng để thoái thác trách nhiệm dẫn đến thiệt hại cho bên bị vi phạm. Trong điều khoản này các bên cần phải định nghĩa về bất khả kháng và quy định nghĩa vụ của bên gặp sự kiện bất khả kháng. Ví dụ: Điều khoản bất khả kháng:

– Định nghĩa “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép;

– Bên gặp sự kiện bất khả kháng phải thông báo ngay cho bên kia biết và phải cung cấp chứng cứ chứng minh sự kiện bất khả kháng đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc vi phạm hợp đồng”.

k) Điều khoản giải quyết tranh chấp:

Đối với việc lựa chọn giải quyết tại Trọng tài hay tại Toà án thì thoả thuận phải phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể:

Trường hợp thứ nhất: Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các thương nhân với các tổ chức, cá nhân khác không phải là thương nhân khi có tranh chấp thì do Toà án có thẩm quyền giải quyết. Các bên không thể lựa chọn Trọng tài để giải quyết theo Điều 1, Điều 7, Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài ngày 25/02/2003 và Điều 2 Nghị Định số: 25/NĐ-CP ngày 15/01/2004.

Trường hợp thứ hai: Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa thương nhân với thương nhân khi có tranh chấp thì các bên có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tại Trọng tài hoặc tại Toà án; nếu có sự tham gia của thương nhân nước ngoài thì các bên còn có thể lựa chọn một tổ chức Trọng tài của Việt Nam hoặc lựa chọn một tổ chức Trọng tài của nước ngoài để giải quyết.

Khi các bên lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thì thoả thuận phải nêu đích danh một tổ chức Trọng tài cụ thể, ví dụ: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam”. Nếu chỉ thoả thuận chung chung là: “trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có tranh chấp sẽ được giải quyết tại Trọng tài” thỏa thuận này vô hiệu.

Riêng đối với hợp đồng mua bán hàng hoá giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài thì các bên còn phải quan tâm đến việc lựa chọn luật áp dụng khi giải quyết tranh chấp là: luật của bên mua, luật của bên bán hay luật quốc tế (các công ước quốc tế – ví dụ: Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hoá). Đây là vấn đề hết sức quan trọng, để tránh những thua thiệt do thiếu hiểu biết pháp luật của nước ngoài hay pháp luật quốc tế thì thương nhân Việt Nam nên chọn luật Việt Nam để áp dụng cho hợp đồng thương mại.

Tóm lại: Nội dung của hợp đồng hoàn toàn do các bên thoả thuận và quyết định cho phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh, loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể; tuy nhiên, những thoả thuận đó phải không vi phạm các điều cấm của pháp luật. Hợp đồng bằng văn bản là một hình thức ký kết hợp đồng quan trọng, thậm chí bắt buộc trong hoạt động thương mại như: hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng mua bán nhà. So với hình thức bằng lời nói “lời nói gió bay” thì hình thức văn bản “giấy trắng mực đen” góp phần hạn chế việc các bên “trở mặt” trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nhưng ngược lại nếu không chú trọng việc soạn thảo hợp đồng thì lại “bút sa gà chết” hoặc tự “mua dây buộc mình”. Để có một văn bản hợp đồng rõ ràng, chặt chẽ, dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hiện, đảm bảo được quyền lợi cho các bên, hạn chế tranh chấp và giảm thiểu rủ ro trong thương mại. Đòi hỏi các bên phải thận trọng, hiểu biết pháp luật và có kỹ năng, kinh nghiệm thực tế trong việc soạn thảo, đàm phán ký kết hợp đồng thương mại.

theo tạp chí luật học

 

 

htv11

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006