Luật Sư Chuyên Hình Sự

Một số vấn đề về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Một số vấn đề về quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Trong tố tụng hình sự, vấn đề thu thập chứng cứ có vai trò rất quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án. Trong đó, người bào chữa với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội có quyền được thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề thu thập chứng cứ của người bào chữa tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự còn gặp nhiều vấn đề khó khăn và bỏ ngỏ. Vì vậy, vấn đề hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa tại giai đoạn điều tra là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội và góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tránh oan sai trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Một số vấn đề chung về quyền thu thập chứng của người bào chữa tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Vai trò của giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Giai đoạn điều tra được bắt đầu từ sau khi quyết định khởi tố vụ án hình sự được phê chuẩn và kết thúc khi cơ quan điều tra hoàn thành bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố người phạm tội. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự. Trong đó, cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ xác định sự thật vụ án, chứng minh tội phạm, chủ thể thực hiện tội phạm và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc truy tố, xét xử. Hơn nữa, thông qua giai đoạn này, cơ quan điều tra xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội với từng vụ án cụ thể và yêu cầu các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa từ phía cơ quan và tổ chức hữu quan.

Như vậy, giai đoạn điều tra có vai trò rất quan trọng, giai đoạn này sẽ có nhiệm vụ xác định tội phạm, xác định người thực hiện hành vi phạm tội và xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội, kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện biện pháp phòng ngừa. Khi tiếp nhận được nguồn tin về tội phạm cơ quan điều tra có nhiệm vụ thu thập các chứng cứ để xác định có hay không có sự việc phạm tội xảy ra. Do vậy, trong giai đoạn điều tra, người bào chữa có vai trò quan trọng. Với tư cách là người bị buộc tội thì môi trường tư pháp hình sự dễ tác động tiêu cực và tổn thương đến họ. Môi trường này có tính chất đặc thù, phức tạp và mang sự cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, thậm chí còn có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng nghiêm khắc như tạm giữ, tạm giam, các biện pháp ngăn chặn, biện pháp hạn chế quyền con người nên người người bị buộc tội rất dễ bị tổn thương.

Theo đó, họ bị cưỡng chế thực hiện những hoạt động, công việc nhất định, quyền tự do bị hạn chế, thậm chí còn bị cách ly ra khi đời sống xã hội hoặc bị tước đoạt mạng sống. Họ phải đối mặt với đội ngũ cán bộ trong tư pháp hình sự được pháp luật trao quyền lực với công cụ, phương tiện hỗ trợ nghiêm khắc nên dễ thực hiện nhiệm vụ “vượt quá mức cần thiết”, cùng với việc họ mặc cảm, thái độ chấp nhận hoặc không biết rằng quyền của mình đang bị xâm hại. Vì vậy, người bào chữa là người có hiểu biết pháp luật sâu sắc, có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và nắm bắt rõ các quyền mà người bị buộc tội có được trong giai đoạn điều tra. Thông qua hoạt động của mình, người bào chữa góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đưa ra các lập luận, chứng cứ chứng minh về không có dấu hiệu của tội phạm.

Hơn nữa, người bào chữa còn đại diện cho tiếng nói của người bị buộc tội, thay mặt họ thực hiện những vấn đề được pháp luật cho phép, kịp thời nắm bắt, hiểu những nguyện vọng, phát hiện ra những sai phạm vi phạm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để phản ánh lên cơ quan có thẩm quyền. Hơn nữa, người bào chữa được sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Căn cứ vào các lập luận, chứng cứ mà người bào chữa đưa ra, cơ quan tiến hành tố tụng có thể xác thực, đánh giá và xem xét tránh để những trường hợp oan sai xảy ra.

Khái niệm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa tại giai đoạn điều điều tra

Trong quá trình xử giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ có thể ra các quyết định hoặc bản án dựa trên cơ sở các chứng cứ chứng minh về sự việc phạm tội cũng như con người thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có liên quan. Tội phạm khi thực hiện bao giờ cũng để lại dấu vết bên ngoài thế giới khách quan, do đó khi tiến hành chứng minh làm rõ vụ án cần phải thu thập các dấu vết tội phạm để lại làm căn cứ để khôi phục toàn bộ diễn biến của vụ án đưa đến nhận thức đúng đắn mang tính khách quan về tội phạm. Điều 86, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 định nghĩa về chứng cứ như sau: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

Như vậy, nhận thấy chứng cứ có vai trò rất quan trọng trong quá trình điều tra và giải quyết vụ án hình sự. Chứng cứ là những sự vật, hiện tượng có thật và thống nhất không thể tách rời, vì vậy xem xét từng thuộc tính của chứng cứ phải trong mối liên hệ với các thuộc tính khác và trong mối quan hệ tổng thể gồm: Tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp.

Trong tố tụng hình sự, người bào chữa có vị trí và vai trò quan trọng, không những có trách nhiệm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn góp phần làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án, đảm bảo công bằng trong quá trình giải quyết vụ án. Người bào chữa là một loại người tham gia tố tụng, là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa [1]. Theo quy định của Điều 72, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người bào chữa bao gồm: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý. Trong đó có luật sư – người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định pháp luật.

Khoản 2, Điều 88, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định: “Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”. Điều này đồng nghĩa với việc lần đầu tiên tố tụng hình sự Việt Nam đã trực tiếp thừa nhận “người bào chữa là chủ thể có quyền thu thập chứng cứ” trong quá trình thực hiện hoạt động gỡ tội cho thân chủ của mình. Đây là một quy định rất tiến bộ, thể hiện sự đổi mới trong tư duy lập pháp khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Luật sư trong việc góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Từ các phân tích trên, có thể hiểu, quyền thu thập chứng của người bào chữa tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự là quyền của những người có vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội được tiến hành các hoạt động thu thập, đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh các vấn đề khách quan của vụ án theo quy định của pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự góp phần làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án, bảo đảm công bằng, công lý và các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.

Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa tại giai đoạn điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Người bào chữa luôn theo sát quá trình giải quyết vụ án, thu thập các chứng cứ, tài liệu theo đúng quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, đó là các chứng cứ gỡ tội, chứng cứ có lợi cho người bị buộc tội. Trong giai đoạn điều tra, việc thu thập chứng cứ của luật sư được chủ động thực hiện thông qua các hoạt động sau:

Thứ nhất, nhóm quyền trực tiếp thu thập chứng cứ. Đây là nhóm các quyền người bào chữa được trực tiếp tham gia vào các hoạt động, biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật để thu thập chứng cứ liên quan đến vụ án, các quyền được quy định chung tại Điều 73, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tại nhóm quyền này, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe những vấn đề họ mà họ trình bày liên quan đến vụ án. Đồng thời, người bào chữa để cho người mình bào chữa trình bày, xác minh tính xác thực trong các biên bản ghi lời khai do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Lời trình bày của những người này có vai trò quan trọng, có thể trở thành chứng cứ được sử dụng trong vụ án hình sự, có thể giúp người bị buộc tội bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định, người bào chữa được có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sự có mặt của người bào chữa trong hoạt động hỏi cung, lấy lời khai sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn toàn diện hơn, đồng thời góp phần bảo đảm sự khách quan, đúng trình tự và trấn an tinh thần người bị buộc tội mà mình bào chữa chữa. Điều này cũng được thể hiện khi người bào chữa có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, người bào chữa được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.

Về vấn đề gặp người bị buộc tội được quy định tại Điều 12, Thông tư số 46/2019/TT-BCA, cụ thể: “Cơ quan điều tra, Cơ sở giam giữ không được hạn chế số lần và thời gian trên một lần gặp của người bào chữa với người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam. Người bào chữa phải tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, các văn bản hướng dẫn thi hành và nội quy cơ sở giam giữ”. Như vậy, thông qua quyền được pháp luật cho phép về việc người bào chữa được tự mình thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật sẽ giúp quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng hơn, góp phần bảo vệ được công lý, công bằng trong giai đoạn điều tra. Các hoạt động gặp, hỏi người bị buộc tội, người làm chứng, bị hại giúp người bào chữa nắm bắt được các tình tiết được rõ ràng, tiến hành phân tích, đánh giá và thu thập được những thông tin, chứng cứ quan trọng, có ý nghĩa và giá trị vào việc chứng minh, lập luận được khách quan, đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý. Qua đó, kịp thời kiến nghị, phản ánh và nộp cho cơ quan có thẩm quyền chứng cứ mà người bào chữa thu thập được nhằm làm rõ ràng, sáng tỏ tình tiết khách quan của vụ án, tránh oan sai, nhầm lẫn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hơn nữa, quá trình trình trao đổi, gặp, hỏi người bị buộc tội, người bào chữa sẽ có cái nhìn toàn diện, tìm ra những điểm chưa trùng khớp với các chứng cứ mà cơ quan điều tra cung cấp, giữa các lời khai của các chủ thể có sự mâu thuẫn với nhau, từ đó, họ sẽ tìm ra những chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người mà họ bào chữa.

Thứ hai, quyền được yêu cầu cơ quan điều tra thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ. Đây là các quyền của người bào chữa thông qua việc đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 73, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Đồng thời, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.

Như vậy, thông qua các hoạt động này, người bào chữa có thể đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động theo quy định để kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Điều này sẽ giúp người bào chữa nếu thấy có sự mâu thuẫn trong chứng cứ với nhau có điều kiện đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại nhằm phát hiện ra những sai sót, những điểm bất thường trong chứng cứ để xử lý kịp thời. Ngoài ra, người bào chữa có có quyền được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra. Việc được sao chụp, ghi chép tài liệu trong hồ sơ vụ án giúp người bào chữa biết những vấn đề đang được điều tra, làm rõ để kịp thời thu thập các chứng cứ có ý nghĩa và liên quan đến việc chứng minh, làm rõ vụ án, bảo đảm tính công bằng, khách quan và đúng pháp luật. Các quy định liên quan đến việc đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan sẽ bảo đảm người bào chữa có điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các hoạt động bào chữa của mình, đồng thời có ý nghĩa trong việc nắm bắt các thông tin liên quan đến người mà mình bào chữa, kịp thời phát hiện những điểm còn mâu thuẫn, chưa rõ ràng để tìm hiểu, thu thập các lập luận của mình là có căn cứ, bảo đảm tình thuyết phục và khách quan.

Có thể thấy, pháp luật đã có nhiều quy định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thực hiện chức năng của mình liên quan đến việc thu thập chứng cứ. Việc thu thập chứng cứ của người bào chữa sẽ được diễn ra khách quan, đúng pháp luật và chứng cứ thu thập được có giá trị trong quá trình giải quyết vụ án. Pháp luật đề cao vai trò của người bào chữa trong các vụ án, trong nhiều trường hợp các chứng cứ mà người bào chữa thu thập được có ý nghĩa quan trọng khi chứng minh được việc bị can, bị cáo không có tội, nhận thấy được tình trạng oan sai, vô tội nên sẽ bảo vệ được quyền con người, tránh những hành vi xâm hại xảy ra, và hạn chế được việc giải quyết vụ án hình sự không bảo đảm tính khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Một số vấn đề đặt ra trong việc bảo đảm quyền thu thập chứng cứ của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Hiện nay, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều quy định sửa đổi, bổ sung. Vì thế, đã phần nào khắc phục được những hạn chế, bất cập mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để lại trong vấn đề “thu thập chứng cứ của người bào chữa”. Bên cạnh những quy định mới tiến bộ thì hiện vẫn còn một vài quy định bộc lộ những bất cập khó khăn trong quá trình thực tiễn áp dụng, có thể thấy việc thu thập chứng cứ độc lập của người bào chữa vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn, có thể kể đến:

Một là, tại khoản 4, Điều 88, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, sau khi thu thập được tài liệu, đồ vật… thì việc đánh giá xem đó có phải là chứng cứ hay không và việc quyết định có sử dụng hay không lại phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan tiến hành tố tụng. Một bên gỡ tội thực hiện thu thập các chứng cứ gỡ tội, khi thu thập được lại phải kịp thời giao nộp cho bên buộc tội (cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan điều tra).

Như vậy, điều này sẽ dẫn đến sự thiếu khách quan, trong nhiều trường hợp khi giao nộp những chứng cứ quan trọng sẽ bị vô hiệu hóa làm sai lệch dẫn đến giá trị chứng minh không còn; nên thực tiễn khi thu thập được chứng cứ quan trọng, quyết định việc có tội hay không có tội của bị can, bị cáo thì thông thường người bào chữa sẽ không tiến hành giao nộp ngay mà chỉ đợi đến khi phiên tòa được mở, thậm chí đến phần tranh luận mới xuất trình, gây khó khăn trong quá trình xem xét đánh giá chứng cứ của Tòa án. Hơn nữa, vấn đề này còn dễ dàng làm mất đi những giá trị chứng minh của chứng cứ, ảnh hưởng đến tính hiệu quả của quá trình bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa.

Hai là, họat động thu thập chứng cứ bằng việc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa: Quy định này rất hình thức bởi thực tiễn, rất hiếm trường hợp người bào chữa đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt là cơ quan, tổ chức Nhà nước cung cấp được các tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Khi nhận được sự bất hợp tác của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp các tài liệu, đồ vật thì người bào chữa lại phải quay sang “đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng” thu thập. Như vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của người bào chữa vẫn trở lại bằng việc đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành thu thập; việc xem xét có tiến hành theo đề nghị của người bào chữa hay không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể tiến hành tố tụng trong việc đánh giá xem người bào chữa đã sử dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng không thể thu thập chứng cứ được hay chưa.

Ba là, trong quá trình thu thập chứng cứ, người bào chữa còn gặp nhiều khó khăn khi việc thu thập chứng cứ là điều quan trọng, cần có áp dụng các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ mới thu thập hiệu quả. Đối với người bào chữa thường vẫn tập trung và việc thu thập có lợi cho người được bào chữa của mình nhưng nhìn chung chứng cứ đó nhiều khi vẫn chưa được cơ quan chức năng chấp nhận. Người bào chữa thu thập chứng cứ thường không được thuận lợi nếu các đề nghị không được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận, hỗ trợ nên gây ra những bất lợi cho quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ của người bào chữa.

Bốn là, các quy định liên quan đến việc chấp nhận và tính hợp pháp của chứng cứ chặt chẽ sẽ bảo đảm tính khách quan nhưng cơ quan điều tra áp dụng mang tính dập khuôn nên vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa trong quá trình thu thập chứng cứ hoặc thu thập được nhưng không được chấp nhận do không phải nguồn của chứng cứ.

Như vậy, nhìn chung có thể thấy về quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan tới việc người bào chữa thu thập chứng cứ mặc dù đã có nhiều quy định mới được sửa đổi, bổ sung góp phần nâng cao vị trí của người bào chữa trong việc thực hiện chức năng bào chữa của mình. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư vẫn vô cùng khó khăn, chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện. Trong thời gian tới, cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết để các quy định này được thực hiện một cách nghiêm túc. Bảo đảm cho quá trình tác nghiệp của người bào chữa, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, tránh oan sai, bảo đảm sự công tâm khách quan, thấu tình đạt lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.....

 

BKG HT

LS TRẦN MINH HÙNG TƯ VẤN LUẬT HTV

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

                   Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước  tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN, Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh sát, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát karaoke tại Bình Chánh, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ "Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

 

Có phải chỉ cần nộp 3/4 tài sản là không bị tử hình?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Nội dung này được Ban biên tập Thư Ký Luật tư vấn như sau:

 

  • Căn cứ Điều 40 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, quy định về hình phạt tử hình như sau:

    Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.

    Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

    Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    - Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

    - Người đủ 75 tuổi trở lên;

    - Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

    Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.

    Như vậy căn cứ quy định của pháp luật hiện hành thì việc nộp 3/4 tài sản để được ân giảm không thi hành hình phạt tử hình chỉ áp dụng với các tội danh tham ô tài sản, tội nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn chứ không phải tất cả các loại tội phạm.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà anh thắc mắc.

    Trân trọng!

ls hung 2222

LS TRẦN MINH HÙNG TRÊN TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG

Luật sư chuyên sâu về hình sự của sẽ cung cấp dịch vụ luật sư tham gia từ giai đoạn khởi tố, điều tra

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư chuyên sâu về hình sự của sẽ cung cấp dịch vụ luật sư tham gia từ giai đoạn khởi tố, điều tra:

  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ trong trường hợp bắt người khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã từ khi có quyết định tạm giữ.
  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can từ khi có quyết định khởi tố bị can.
  • Tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho bị cáo từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
  • Tham gia tố tụng hình sự trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, tuy tố, xét xử theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng trong các vụ án chỉ định (các vụ án mà bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử ở khung hình phạt có mức án cao nhất; các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần…)
  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì Luật sư của có thể thay mặt họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự.
  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.

Thông tư 70/2011/TT-BCA của Bộ Công an quy định điều tra viên phải thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung cho luật sư trước 24 giờ hoặc trước 48 giờ với người bào chữa ở xa. Như vậy với sự có mặt của luật sư sẽ giúp việc hỏi cung, lấy lời khai diễn ra theo đúng quy định, tạo một đối trọng với điều tra viên, tránh được tình trạng bức cung, dùng nhục hình hoặc mớm cung, từ đó tránh được những vụ án oan sai.

Luật sư hình sự sẽ làm những công việc sau để bảo đảm tốt nhất cho bị can, bị cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra.

  • Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định;
  • Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
  • Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
  • Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
  • Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
  • Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
  • Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.

Dịch vụ luật sư bào chữa cho bị cáo trong giai đoạn xét xử

Luật sư là một yếu tố không quan trọng trong việc điều tra các vụ án hình sự. Luật sư hình sự tham gia từ giai đoạn điều tra, truy tố đóng vai trò quan trọng trong quá trình xét xử, góp phần vào việc giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật, giúp bảo vệ quyền công dân, quyền con người của thân chủ, thực hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.

 

CCHC8

 

LS TRẦN MINH HÙNG TRÊN HTV

  Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước  tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN, Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh sát, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát karaoke tại Bình Chánh, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ "Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự 2015

Trộm cắp tài sản là một tội phổ biến trong đời sống hằng ngày xuất phát từ việc người phạm tội vì lòng tham mà muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để làm của riêng của mình một cách bất hợp pháp. Luật hình sự Việt Nam quy định rõ về tội trôm cắp tài sản trong điều 173 bộ luật hình sự 2015 và mức hình phạt tương ứng.

Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 BLHS 2015 SĐ, BS 2017.

Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút bí mật chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là di vật, cổ vật.

Dấu hiệu pháp lý

Khách thể của tội phạm

Tội xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân.

Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi trộm cắp tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau:

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội: Tội cướp tài sản (Điều 168), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ( Điều 169), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), Tội cướp giật tài sản (Điều 171), Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) và Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( Điều 290) của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật.

Tội trộm cắp tài sản hoàn thành từ thời điểm người phạm tội chuyển dịch được tài sản thoát khỏi sự quản lý của người quản lý tài sản.

Trên thực tế, việc xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm phụ thuộc vào tính chất tài sản dễ hay không dễ cất giấu và vị trí nơi để tài sản (nơi để trong người, ngoài sân, ngoài bãi, dọc đường đi…)

Mặt chủ quan của tội phạm

Tội trộm cắp tài sản được thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ phạm tội là vụ lợi.

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, từ đủ 16 tuổi trở lên đối với trường hợp phạm tội tại khoản 1, 2; từ đủ 14 trở lên đối với trường hợp phạm tội tại khoản 3, 4 Điều 173 BLHS.

Hình phạt

Khung hình phạt tại Khoản 1:

Có mức hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan.

Khung hình phạt tại Khoản 2:

Có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Được áp dụng đối vối một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

-Có tổ chức;

-Có tính chất chuyên nghiệp;

-Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

-Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

-Hành hung để tẩu thoát;

-Tài sản là bảo vật quốc gia;

-Tái phạm nguy hiểm.

Khung hình phạt tại Khoản 3:

Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Được áp dụng đối vói một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

-Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

-Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Khung hình phạt tại Khoản 4:

Có mức phạt tù từ mười hai đến hai mươi năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:

-Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

-Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

-Hình phạt bổ sung (khoản 5)

Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

Trên đây là những quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản quý khách có nhu cầu thuê luật sư để bào chữa bảo vệ trong các vụ án hình sự hãy nhấc máy gọi cho luật sư chúng tôi.

 

htv999

LS TRẦN MINH HÙNG TRÊN HTV

Viện kiểm sát quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giam

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Viện kiểm sát quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giam

Ngày 2/12/2020, VKSND TP Cần Thơ ban hành Quyết định trả tự do cho người bị tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật.

Sau khi nhận được văn bản trả lời thỉnh thị của Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (Vụ 8), VKSND tối cao, ngày 2/12/2020, VKSND TP Cần Thơ đã ban hành Quyết định trả tự do cho người bị tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật.

Theo quyết định, ngày 27/4/2018, Đặng Trần Đan Duy bị TAND quận Cái Răng, TP Cần Thơ tuyên phạt 1 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 3 năm về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo Bản án hình sự số 23.

 Đến ngày 29/11/2018, Đặng Trần Đan Duy bị TAND quận Ninh Kiều tuyên phạt 2 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt  bản án số 23 của TAND quận Cái Răng, buộc  bị cáo Đặng Trần Đan Duy phải chấp hành là 3 năm 6 tháng tù giam theo bản án số 295 của TAND quận Ninh Kiều. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 13/8/2018, được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 2/9/2017 đến ngày 13/2/2018.

Ngày 7/1/2019, TAND quận Ninh Kiều ban hành Quyết định thi hành án phạt tù đối với Đặng Trần Đan Duy và Duy được đưa đi chấp hành tại Trại giam Phước Hòa, đóng tại tỉnh Tiền Giang.

Ngày 27/2/2019, VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh kháng nghị giám đốc thẩm bản án hình sự sơ thẩm số 23 nêu trên của TAND quận Cái Răng, đề nghị TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm theo hưởng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung đối với Đặng Trần Đan Duy về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Ngày 3/5/2019, TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm, quyết định hủy bản án sơ thẩm số 23 của TAND quận Cái Răng và chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Ngày 13/8/2020, cơ quan quản lý THAHS Bộ Công an ra Lệnh trích xuất phạm nhân Duy từ Trại giam Phước Hòa đến Nhà tạm giữ Công an quận Cái Răng. Thời hạn trích xuất: 2 tháng, kể từ ngày 24/8/2020 đến 24/10/2020. Ngày 20/10/2020, cơ quan quản lý THAHS Bộ Công an ra lệnh gia hạn trích xuất lần thứ nhất đối với Duy, thời hạn 2 tháng, kể từ ngày 25/10/2020 đến ngày 25/12/2020.

Đồng chí Hồ Trần Phương, Trưởng phòng 8, VKSND TP Cần Thơ  công bố  quyết định, kế hoạch kiểm sát Nhà tạm giữ Công an quận Cái Răng. (Ảnh: VKSND TP Cần Thơ)

Ngày 20/11/2020, TAND quận Cái Răng xét xử sơ thẩm tuyên phạt Đặng Trần Đan Duy 1 năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo bản án sơ thẩm số 96 năm 2020. Tổng hợp 2 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án số 295 năm 2018 của TAND quận Ninh Kiều, buộc Đặng Trần Đan Duy chấp hành  hình phạt chung là 3 năm tù.

Trong quá trình chấp hành án tại Trại giam Phước Hòa, Đặng Trần Đan Duy được TAND tỉnh Tiền Giang xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù 3 tháng.

Thực hiện công tác kiểm sát, VKSND TP Cần Thơ nhận thấy, ngay khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm ngày 20/11/2020, Hội đồng xét xử TAND quận Cái Răng ban hành Quyết định tạm giam 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để bảo đảm thi hành án đối với Duy, thời hạn tạm giam sẽ hết hạn vào ngày 4/1/2021. Tuy nhiên, đến hết ngày 1/12/2020, Đặng Trần Đan Duy đã chấp hành xong án phạt 3 năm tù giam theo bản án số 96/2020 của TAND quận Cái Răng.

Vì vậy, nếu tiếp tục tạm giam Đặng Trần Đan Duy theo quyết định của Hội đồng xét xử TAND quận Cái Răng là không có căn cứ và trái pháp luật; Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người đang bị giam giữ, VKSND TP Cần Thơ đã ban hành quyết định trả tự do ngay cho Đặng Trần Đan Duy (SN 1985, trú tại phường An Hòa, quận Ninh Kiều), theo khoản 2 Điều 22 và Điều 24 Luật tổ chức VKSND.

Điều 22. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam

 

2. Khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
 

a) Trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam; hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam;

b) Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam;

c) Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam;

d) Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật;

đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật;

e) Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật;

g) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: Baovephapluat.vn

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006