Luật Sư Chuyên Hình Sự

Về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”

 

“Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử các Toà án cũng thường áp dụng tình tiết giảm nhẹ này đối với bị cáo khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào Toà án cũng áp dụng đúng với nội dung của tình tiết giảm nhẹ này, mà không ít trường hợp do nhận thức hoặc do đánh giá không thống nhất nên khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này không đúng pháp luật, không có tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Về tình tiết giảm nhẹ này, không phải là tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 mà đã được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức nào về tình tiết giảm nhẹ này. Tại Hội nghị tổng kết công tác chống tham nhũng và buôn lậu năm 1992, Toà án nhân dân tối cao đã lưu ý: “Khi vận dụng tình tiết phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng cần phải nắm vững cả hai vế: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sai lầm của một số Thẩm phán thường là chỉ quan tâm đến vế thứ nhất là phạm tội lần đầu mà không chú ý vế thứ hai là và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Tuy nhiên, tại Hội nghị này cũng chưa hướng dẫn một cách đầy đủ về nội dung tình tiết giảm nhẹ này, cũng như áp dụng như thế nào cho đúng với quy định của Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực pháp luật, tuy chưa có hướng dẫn chính thức nhưng cũng đã có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành trao đổi về tình tiết giảm nhẹ này nhưng chủ yếu dừng lại ở từng vụ án cụ thể, chưa có tính khái quát, tổng hợp để có thể áp dụng đối với tất cả các trường hợp phạm tội. Để giúp cho Thẩm phán Toà án các cấp hiểu và sử dụng tình tiết giảm nhẹ này, chúng tội có một số ý kiến và rất mong bạn đọc trong và ngoài ngành cùng trao đổi.

Theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” bao gồm hai nội dung (hai vế) rất rõ đó là: “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Nếu tách hai nội dung này ra thì giữa “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” không liên quan gì với nhau, nhưng nhà làm luật quy định: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là một tình tiết giảm nhẹ với việc dùng liên từ “và” để gắn hai nội dung (hai vế) với nhau thì cả hai nội dung (hai vế) là điều kiện cần và đủ để xác định có được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không. Cũng chính vì vậy mà tại Hội nghị tổng kết công tác chống tham nhũng và buôn lậu năm 1992, Toà án nhân dân tối cao đã lưu ý: “Khi vận dụng tình tiết phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng cần phải nắm vững cả hai vế: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tuy nhiên khi xác định nội dung tình tiết giảm nhẹ này thì chúng ta phải xác định từng vế, trên cơ sở đó mới có thể xác định người phạm tội có thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự hay không.

1. Phạm tội lần đầu

Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, việc xác định thế nào là phạm tội lần đầu cũng có nhiều ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm tội lần đầu là lần đầu bị đưa ra xét xử, vì chỉ có Toà án mới có thẩm quyền quyết định hình phạt, một người chỉ bị Toà án đưa ra xét xử thì mới có việc quyết định hình phạt và chỉ khi quyết định hình phạt thì Toà án mới căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ (Điều 45 Bộ luật hình sự). Nếu người phạm tội đã có nhiều lần phạm tội nhưng chưa có lần nào bị Toà án kết án thì vẫn được coi là phạm tội lần đầu. Ví dụ: Năm 2008, Huỳnh Tấn H đã hai lần bị Công an phường xử phạt hành chính với hình thức  cảnh cáo về hành vi trộm cắp; ngày 15-3-2009 Huỳng Tấn H lại trộm cắp Toà án trị giá 2.000.000 đồng và bị truy tố theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự; khi quyết định hình phạt đối với Huỳnh Tấn H, Toà án nhân dân huyện K xác định Huỳnh Tấn H “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

Ý kiến thứ hai cho rằng, phạm tội lần đầu cũng là trường hợp lần đầu bị đưa ra xét xử hoặc tuy đã bị đưa ra xét xử nhiều lần, nhưng trước khi bị đưa ra xét xử lần này, nếu hành vi phạm tội trước đó đã được xoá án tích hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì vẫn được coi là phạm tội lần đầu. Ví dụ: Năm 2002, Nguyễn Văn M bị Toà án nhân dân huyện Q kết án 6 tù nhưng cho hưởng án treo về tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự, đã được xoá án; ngày 25-12-2008 Nguyễn Văn M lại bị bắt về tội đánh bạc và bị truy tố theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự. Khi xét xử và quyết định hình phạt đối với Nguyễn Văn M, Toà án nhân dân huyện Q xác định Nguyễn Văn M “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

Ý kiến thứ ba cho rằng, phạm tội lần đầu là trường hợp một người thực hiện một hoặc một số hành vi phạm tội nhưng chưa bị xử lý hoặc bị xét xử lần nào lần đưa ra xét xử này là lần đầu tiên. Ví dụ: Ngày 24-1-2009, Lưu Thị T bị bắt quả tang đang vận chuyển 30 kg pháo nổ; trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra còn phát hiện trước đó, ngày 20- 12-2008 Lưu Thị L còn mua bán 40 kg pháo nổ. Với hành vi phạm tội như trên, Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố Lưu Thị L về tội “vận chuyển, buôn bán hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự. Khi xét xử và quyết định hình phạt Toà án nhân dân quận H đã xác định Lưu Thị L “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

Ý kiến thứ tư cho rằng, phạm tội lần đầu là từ trước tới nay chưa phạm tội lần nào. Nếu các lần phạm tội trước đó đã bị xử lý hành chính, đã bị kết án chưa được xoá án hoặc đã được xoá án, hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì lần phạm tội mới này vẫn không được coi là phạm tội lần đầu. Theo quan điểm này thì ba ví dụ nêu trên đều không được coi là “phạm tội lần đầu”, chỉ coi là “phạm tội lần đầu” khi bị xét xử người phạm tội chưa một lần nào có hành vi phạm tội và lần phạm tội này cũng chỉ bị truy trách nhiệm hình sự về một tội và tội đó thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Nếu người phạm tội tuy trước đó chưa phạm tội lần nào nhưng lần bị đưc ra xét xử lần này lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự về nhiều tội khác nhau thì cũng không được coi là “phạm tội lần đầu”. Ví dụ:  Đặng Văn Q bị truy tố về tội “cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 104 và tội “dâm ô đối với trẻ em” theo khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự. Trước khi bị truy tố về hai tội này, Đặng Văn Q chưa phạm tội lần nào. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này và phân tích thêm một số vấn đề sau:

Điều luật quy định “phạm tội lần đầu” chứ không quy định “bị kết án lần đầu” hay “bị xét xử lần đầu”. Phạm tội là hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà Luật hình sự bảo vệ, không phụ thuộc vào việc người có hành vi đó bị xử lý như thế nào. Một người có hành vi phạm tội có thể bị Toà án kết án, có thể bị xử phạt hành chính, có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng họ vẫn bị coi là đã phạm tội nên lần phạm tội bị Toà án đang xét xử thì không thể coi là “phạm tội lần đầu” được. Phạm tội lần đầu là một khái niệm độc lập không liên quan đến các chế định khác có liên quan đến phạm tội nhiều lần như: tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; tiền án hoặc tiền sự. Một người có thể phạm tội nhiều lần nhưng có thể không bị xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, hoặc không bị xác định là tiền án hoặc tiền sự, nhưng vẫn bị coi là đã phạm tội. Điều 63 Bộ luật hình sự quy định: “Người được xoá án tích coi như chưa bị kết án” chứ không quy định “coi như chưa phạm tội”. Ý nghĩa của tình tiết giảm nhẹ này là chiếu cố những người chưa bao giờ thực hiện hành vi phạm tội, nay vì một lý do hoặc hoàn cảnh nào đó mà họ phạm tội lần đầu.

Tuy nhiên nếu chỉ phạm tội lần đầu mà thuộc trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ, mà chỉ thuộc trường hợp ít nghiêm trọng thì mới được coi là tình tiết giảm nhẹ. Do đó, Bộ luật hình sự quy định “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

2. Thuộc trường hợp ít nghiêm trọng

Thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là trường hợp tội phạm mà người phạm tội thực hiện gây nguy hại không lớn cho xã hội. Ví dụ: Trộm cắp tài sản có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 50 triệu đồng nhưng không gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trước hết thuộc trường hợp  tội phạm mà người phạm tội thực hiện là tội ít nghiêm trọng quy định ở khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Ví dụ: Tội giết con mới đẻ (Điều 94); tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 95; tội xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; tội ở lại nước ngoài hoặc ở Việt Nam trái phép (Điều 274)…

Do cấu tạo của Bộ luật hình sự nên có tội phạm điều luật chỉ quy định một khung hình phạt. Ví dụ: Tội giết con mới đẻ quy định tại Điều 94 Bộ luật hình sự chỉ có một khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Nhưng đa số tội phạm điều luật quy định nhiều khung hình phạt mỗi khung hình phạt tương ứng với một khoản của điều luật. Ví dụ: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự có tới 4 khung hình phạt tương ứng với 4 khoản (trừ khoản 5 quy định hình phạt bổ sung). Trong đó, khoản 1 có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm; khoản 2 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù; khoản 3 có khung hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm tù và khoản 4 có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm tù hoặc tù chung thân. Có thể nói tội có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác là tội phạm được cấu tạo bao gồm đầy đủ cả bốn loại tội: Khoản 1 là tội phạm ít nghiêm trọng, khoản 2 là tội phạm nghiêm trọng, khoản 3 là tội phạm rất nghiêm trọng, khoản 4 là tội phạm đắc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên không phải tội phạm nào cũng được cấu tạo như tội có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác mà tuỳ thuộc vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà nhà làm luật quy định là loại tội phạm nào. Có tội phạm luôn luôn là tội ít nghiêm trọng. Ví dụ: tội có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 106 Bộ luật hình sự, cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng; có tội phạm luôn luôn là tội đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ: Tội phá hoại hoà bình, gây chiến tranh xâm lược quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự, tội chống loài người quy định tại Điều 342 Bộ luật hình sự, tội phạm chiến tranh quy định tại Điều 343 Bộ luật hình sự; có tội phạm vừa tội ít nghiêm trọng vừa là tội nghiêm trọng hoặc vừa là tội nghiêm trọng vừa là tội rất nghiêm trọng hoặc vừa là tội rất nghiêm trọng vừa là tội đặc biệt nghiêm trọng… Vì vậy, khi cần xác định tội phạm nào là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng phải căn cứ vào khung hình phạt đối với tội ấy.

Trước hết, căn cứ để xác định tội phạm ít nghiêm trọng là hành vi phạm tội gây nguy hại cho xã hội không lớn. Đại lượng không lớn mà nhà làm luật quy định có thể được xác định ngay trong điều luật. Ví dụ: gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30 % ( khoản 1 Điều 104) hoặc trộm cắp tài sản từ 2.000.000 đến 50.000.000 đồng (khoản 1 Điều 138). Nhưng cũng có thể do các cơ quan tiến hành tố tụng xác định. Ví dụ: hành vi dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội (Điều 130) phải có sự đánh giá thế nào là hành vi nghiêm trọng khác hoặc nếu xác định hành vi phạm tội chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa phải là tội phạm nghiêm trọng mà vẫn là tội phạm ít nghiêm trọng. Ví dụ: Một người trộm cắp từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì vẫn thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng, nhưng nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì thuộc trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng. Như vậy, nhà làm luật chỉ đưa ra tiêu chí để phân biệt tội phạm và trong nhiều trường hợp tiêu chí đó đã được quy định ngay trong điều khoản của Bộ luật hình sự, nhưng cũng không ít trường hợp việc xác định tội phạm ít nghiêm trọng lại do chính các cơ quan tiến hành tố tụng.

Bộ luật hình sự quy định tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà không quy định gây thiệt hại không lớn cho xã hội. Do đó, cần phải hiểu rằng nguy hại cho xã hội và thiệt hại cho xã hội không phải là một, có trường hợp chưa gây thiệt hại nhưng đã gây nguy hại lớn cho xã hội. Ví dụ: Hành vi hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân mặc dù chưa gây thiệt hại (chưa lật đổ được chính quyền nhân dân) vẫn bị coi là hành vi gây nguy hại rát lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội (Điều 78 Bộ luật hình sự). Ngược lại, có hành vi gây thiệt hại lớn cho xã hội nhưng lại chưa bị coi là gây nguy hại lớn cho xã hội. Ví dụ: Hành vi cản trở giao thông đường bộ gây thiệt nghiêm trọng đến sức khoẻ, tài sản nhưng chỉ bị coi là hành vi gây nguy hại không lớn cho xã hội, nên hành vi này cũng chỉ là hành vi phạm tội ít nghiêm trọng ( khoản 1 Điều 203 Bộ luật hình sự).

Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội là tiêu chí cơ bản đẻ xác định tội phạm ít nghiêm trọng nhưng nếu chỉ căn cứ vào tiêu chí này thì cũng chưa thể xác định tội phạm đó là tội phạm ít nghiêm trọng hay nghiêm trọng mà phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm ít nghiêm trọng là đến ba năm tù. Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là đến ba năm tù không có nghĩa là tội phạm đó có mức cao nhất của khung hình phạt nhất thiết là ba năm tù mà có thể dưới ba năm tù, thậm chí không có hình phạt tù. Ví dụ: Tội vi phạm chế đọ một vợ một chồng quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là một năm tù; tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là cải tạo không giam giữ đến một năm … Các tội phạm này mức cao nhất của khung hình phạt không phải là ba năm tù, thậm chí không phải là hình phạt tù.

Ngoài những tội ít nghiêm trọng, người phạm tội lần đầu đối với các tội nghiêm trọng, nhưng do có các tình tiết đặc biệt của vụ án làm cho trường hợp phạm tội cụ thể đó thành ít nghiêm trọng thì cũng thuộc tình tiết giảm nhẹ này. Tuy nhiên chỉ coi là trường hợp ít nghiêm trọng, nếu khung hình phạt đối với tội ấy có mức thấp nhất từ 3 năm tù trở xuống và khi quyết định hình phạt, Toà án cũng chỉ xử phạt bị cáo không quá 3 năm tù. Ví dụ: Khoản 1 Điều 97 về tội Làm chết người trong khi thi hành công vụ có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù là tội nghiêm trọng. Nhưng người phạm tội có  nhiều tình tiết giảm nhẹ, Toà án chỉ xử phạt bị cáo với hình phạt từ 3 năm tù trở xuống thì vẫn coi đây là trường hợp ít nghiêm trọng.

Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, có Toà án chỉ xác định  “bị cáo phạm tội lần đầu” mà không xác định xem bị cáo phạm tội có thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hay không nhưng vẫn áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; có Toà án cũng biết là bị cáo phạm tội không phải là lần đầu mà chỉ thuộc trường hợp lần đầu bị “đưa ra xét xử” nhưng cũng áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Ngược lại có Toà án cho rằng bị cáo có nhiều hành vi phạm tội cùng một tội, nhưng nếu tách riêng từng hành vi ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm đó là tội phạm ít nghiêm trọng nhưng Toà án lại cho rằng bị cáo phạm tội nhiều lần chứ không phải là phạm tội lần đầu. Ví dụ: Ngày 03-4-2008, Phạm Quốc T  trộm cắp tài sản trị giá 800.000 đồng, ngày 13-4-2008 T lại trộm cắp tài sản trị giá 1.200.000 đồng và ngày 31-5-2008 T lại trộm cắp tài sản có giá trị 300.000 đồng thì bị bắt và bị truy tố về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp này, nếu tách từng hành vi của Phạm Quốc T thì chưa có lần nào cấu thành tội trộm cắp, nhưng nếu tính cả 3 lần trộm cắp thì hành vi của Phạm Quốc T mới cầu thành tội trộm cắp tài sản và thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù và là tội phạm ít nghiêm trọng, nên hành vi của Phạm Quốc T được coi là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Về “Trường hợp ít nghiêm trọng”, thực tiễn xét xử hầu hết các Toà án chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm trọng tức là tội mà họ bị truy tố, xét xử có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù, rất ít trường hợp Toà án áp dụng đối với những tội nghiêm trọng, chưa có trường hợp nào Toà án áp dụng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.

Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử có ý kiến cho rằng, Bộ luật hình sự có quy định “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” ở một số điều luật cụ thể nên người phạm tội chỉ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ này nếu họ phạm tội lần đầu và tội phạm đó Bộ luật hình sự có quy định là “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Ví dụ: Huỳnh Thị C lần đầu phạm tội gián điệp thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 80 Bộ luật hình sự thì mới được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” vì khoản 2 Điều 80 Bộ luật hình sự quy định “phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm”.

Theo quan điểm trên, thì tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” chỉ được áp dụng đối với rất ít trường hợp, vì Bộ luật hình sự chỉ có một số tội phạm nhà làm luật quy định “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” như: tội giấn điệp (khoản 2 Điều 80); tội phá hoại cơ sở vật chất-kỹ thuật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 2 Điều 85); tội phá hoại chính sách đoàn kết (khoản 2 Điều 86); tội phá hoại chính sách đoàn kết (khoản 2 Điều 87) và tội chống phá trại giam (khoản 2 Điều 90). Ngoài các tội phạm trên, thì không còn tội phạm nào nhà làm luật quy định “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

Đúng là Bộ luật hình sự có một số điều luật nhà làm luật quy định “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” và cũng chỉ đối với một số tội xâm phạm an ninh quốc gia nhưng không vì thế mà cho rằng các tội phạm khác không có trường hợp ít nghiêm trọng. Mặt khác, các tội phạm quy định tại các Điều 80, 85, 86, 87 và 90 là các tội xâm phạm an ninh quốc gia đều là các tội đặc biệt nghiêm trọng, trường hợp ít nghiêm trọng đối với các tội phạm này mà nhà làm luật quy định cũng là tội phạm nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, không có trường hợp nào là tội phạm ít nghiêm trọng. Hơn nữa, tình tiết “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại khoản 2 các Điều 80, 85, 86, 87 và 90 đã là tình tiết định khung hình phạt nên nó cũng không còn là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự nữa. Vì vậy, tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” chỉ áp dụng đối với các tội phạm mà nhà làm luật không quy định là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt.

Nguồn: Theo Thạc sỹ: Đinh Văn Quế

 

CCHC6

LS TRẦN MINH HÙNG

 

Luật sư giỏi về hình sự tại tphcm

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư trong các vụ án hình sự tham gia trợ giúp những gì đối với khách hàng?

– Tư vấn và giúp khách hàng tìm chứng cơ ngoại phạm hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự, các lỗi trong tố tụng hình sự giúp khách hàng minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

– Tư vấn và hướng dẫn khách hàng lập thủ tục bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm để khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra cho người khác trong trường hợp gia đình người bị hại đồng ý hoặc không đồng ý nhận bồi thường.

– Tư vấn và giúp khách hàng hiểu rõ quyền và trách nhiệm của mình, hướng dẫn khách hàng khai khi bị hỏi cung trước các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc trước phiên Tòa tránh tình trạng bị ép cung, mớm cung, dụ cung.

– Hướng dẫn khách hàng soạn thảo một số văn bản trong quá trình tiếp nhận vụ án như: Đơn xin bảo lãnh tại ngoại, đơn xin giảm nhẹ hình phạt, đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự…

– Tư vấn cho khách hàng về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, những trường hợp không áp dụng miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.

– Tư vấn về các hình phạt cụ thể và các nội dung khác liên quan đến hình phạt và các  quy định pháp luật hình sự về quyết định hình phạt và vấn đề liên quan.

– Tư vấn về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời gian chấp hành hình phạt, tư vấn quy định pháp luật về xóa án tích và các quy định liên quan.

– Tư vấn pháp luật về các quy định đối với trường hợp người chưa thành niên phạm...

206

<iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/hQt6twbHUZ8" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>

 

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống,Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ đốt nhà 10 người ở TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Luật sư tư vấn phân biệt quy định khởi tố vụ án và khởi tố bị can

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Phân biệt quy định khởi tố vụ án và khởi tố bị can

Cơ sở pháp lý: Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

Tiêu chí Khởi tố vụ án Khởi tố bị can
Đối tượng khởi tố Khởi tố về hành vi có dấu hiệu phạm tội. Khởi tố người hoặc pháp nhân có hành vi phạm tội cụ thể.
Căn cứ khởi tố Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:

Tố giác của cá nhân;

Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;

Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;

Người phạm tội tự thú.

(Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015)

Sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra vụ án. Từ đó, nếu có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị bị can. Quyết định khởi tố bị can phải được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp với cơ quan điều tra.

(Điều 179 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015)

Thẩm quyền ra quyết định khởi tố Có 04 cơ quan:

– Cơ quan điều tra;

– Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

– Viện kiểm sát;

– Hội đồng xét xử.

Có 03 cơ quan:

– Cơ quan điều tra;

– Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

– Viện kiểm sát.

Các giai đoạn ra quyết định khởi tố Có 04 giai đoạn có thể khởi tố:

– Giai đoạn khởi tố;

– Giai đoạn điều tra;

– Giai đoạn truy tố;

– Giai đoạn xét xử.

(Điều 153 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015)

Có 02 giai đoạn có thể khởi tố:

– Giai đoạn điều tra;

– Giai đoạn truy tố.

(Điều 179 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015)

Kết thúc khởi tố Thời điểm kết thúc của giai đoạn khởi tố vụ án được tính từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự (trong trường hợp xác định có dấu hiệu tội phạm), hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự (khi xác định không có dấu hiệu tội phạm). Khởi tố bị can không phải là giai đoạn tố tụng mà chỉ là hành vi tố tụng tại giai đoạn điều tra của người có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can khi đã xác định được một người cụ thể có hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự, cần phải tiến hành các hoạt động điều tra đối với họ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự

Mối liên hệ giữa quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can

Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải có trước quyết định khởi tố bị can bởi sau khi khởi tố vụ án bước vào giai đoạn điều tra thì cơ quan có thẩm quyền mới điều tra căn cứ xác định 04 yếu tố cấu thành tội phạm để có căn cứ khởi tố bị can.

Tuy nhiên, trong thực tế giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền có thể ban hành hai quyết định này cùng một thời điểm ngay khi xác định tại sự việc, sự kiện phạm tội có dấu hiệu tội phạm thì cũng đồng thời xác định được ngay người thực hiện hành vi phạm tội. (như  trường hợp bắt tội phạm quả tang)

Ví dụ: trong các vụ án liên quan đến các tội về hối lộ, các tội về đánh bạc, tổ chức đánh bạc, hoặc các vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.v.v…, trong các vụ án này, thường xác định được ngay dấu hiệu tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội....

 

12

<iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/hQt6twbHUZ8" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>

 

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

Văn phòng luật sư Gia Đình là hãng luật độc lập – thuộc Đoàn luật sư TPHCM- Chuyên doanh nghiệp- lao động- thương mại, hợp đồng, hình sự, gia đình là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Văn phòng luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV7-HTV9), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông,Truyền hình công an ANTV, Đài tiếng nói Việt Nam VTV1, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội VN, Báo Pháp luật TPHCM, SCTV, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, vụ cướp 35 tỷ Long Thành – Dầu Dây, vụ phóng xăng đốt giết 10 người vì láng giềng giàu hơn tại TPHCM, vụ chống người thi hành công vụ mùa covid tại quận 7, vụ Bạn trai phủ nhận để bạn gái đi tù 1 Tại TPHCM, Vụ Cưỡng đoạt tài sản tại An Giang, vụ cố ý gây thương tích công dân Hà Lan, Vụ giết người vì hát karaoke tại Bình Chánh, Vụ mua bán trái phép chất ma túy hàng kg tại Tây ninh, Vụ tranh chấp đất đứng tên dùm trị giá 163 tỷ tại TPHCM, vụ tranh chấp mua bán căn hộ chung cư với công ty Masterry…. và nhiều vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, hình sự, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi đã giải quyết nhiều vụ tranh chấp và từng tư vấn pháp luật thường xuyên cho nhiều công ty như: Công ty chế biến trái cây Yasaka (Nhật bản), Công ty Nam Chê (Hàn Quốc), Công ty Cổ phần thương mại dịch vụ Bến Thành (Cổ phần nhà nước), Công ty TNHH Kỹ Thuật Năng Lượng, Công ty Vina Buhmwoo (Hàn Quốc), Công ty ECO SYS Kim Trường Phát (Hàn Quốc), Công ty cổ phần BĐS BiG Land, Công ty TNHH dược phẩm AAA, Công ty TNHH Hanwa Kakoki Việt Nam (Nhật Bản), Công ty TNHH DV BV Ti Tan, Công ty CP Chuỗi Nông sản Sài gòn, Công ty CP BĐS Happy Land S, Công ty CP SG Xây dựng (cổ phần hóa nhà nước), Công ty CP Maduphar, Công ty Thủy sản Đắc Lộc (Phú Yên), Công ty Happy Land S, Công ty Konokinmo, Công ty Blue Bay (Bến Tre), Công ty Country (TPHCM) Gallant Ocean Việt Nam (Khánh Hòa)…và nhiều công ty khác

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)

5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)

68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958

Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

http://www.luatsugiadinh.net.vn

http://www.luatsuthanhpho.com

 

Luật sư giỏi chuyên bào chữa hình sự tại tphcm

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Để việc kết tội được thực hiện đúng pháp luật, tránh làm oan và bỏ lọt tội phạm, việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là cần thiết. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là một trong những nguyên tắc của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Quyền bào chữa của bị cáo được quy định cụ thể như thế nào? 


1. CƠ SỞ PHÁP LÝ

– Bô luật Tố tụng hình sự 2015. 

2. NỘI DUNG TƯ VẤN

2.1. QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CÁO

2.1.1. Khái niệm

Bị cáo là thuật ngữ được dùng để chỉ người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.

Bào chữa là việc dùng lí lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Bào chữa là một trong các quyền quan trọng của người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng.

Điểm g khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa. Trường hợp bị cáo là pháp nhân, quyền bào chữa của bị cáo do người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thực hiện.

Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội là một trong các nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 16 Bộ luật này quy định: 

Điều 16. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự

Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này.

Căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, quyền bào chữa là quyền của bị can, bị cáo, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ. Đây là quyền, không đồng thời là nghĩa vụ của bị cáo. Bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.

2.1.2. Ý nghĩa của việc quy định quyền bào chữa của bị cáo

Quyền bào chữa là quyền của người bị buộc tội được thực hiện nhằm bảo vệ mình trước pháp luật.

Quyền bào chữa của bị cáo là yêu cầu khách quan trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn. Thực hiện quyền bào chữa nhằm tránh việc oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. 

Trong trường hợp bị cáo nhờ người bào chữa bào chữa hoặc do cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định thì người bào chữa có quyền bào chữa. Người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Người bào chữa phải đăng ký bào chữa theo quy định của pháp luật.

2.1.3. Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo

Để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, ngay từ khi bị khởi tố, bị can có quyền được yêu cầu đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu.

Tại phiên tòa, bị cáo có quyền trình bày lời khai; trình bày ý kiến; không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

Bị cáo có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu nhằm thực hiên quyền bào chữa.

2.2. BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI  

Quyền bào chữa của bị cáo là người dưới 18 tuổi là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị cáo là người dưới 18 tuổi có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ. 

Quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định tại Điều 442. Theo đó quyền bào chữa của bị can dưới 18 tuổi được thực hiện như sau: 

– Tự mình thực hiện hoặc tự nhờ người bào chữa.

– Người đại diện được quyền bào chữa hoặc lựa chọn người bào chữa cho người dưới 18 tuổi.

– Yêu cầu có người bào chữa cho người dưới 18 tuổi là bắt buộc. Do vây khi người dưới 18 tuổi không có người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chỉ định người bào chữa theo quy định của pháp luật. 

2.3. CHỈ ĐỊNH NGƯỜI BÀO CHỮA

Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự là quy định thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.
Để đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung, trong một số trường hợp bắt buộc phải chỉ định người bào chữa khi người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa. Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các trường hợp chỉ định người bào chữa như sau:

– Bị can, bị cáo phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù; tù chung thân; tử hình;

– Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa;

– Người có nhược điểm về tâm thần

– Người dưới 18 tuổi.

Quyền của người bào chữa được quy định tại khoản 1 Điều 73 luật này.  Đảm bảo quyền lợi của người bào chữa là nhằm đảm bảo tối đa quyền bào chữa của bị cáo. ...

VTV1

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống,Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ đốt nhà 10 người ở TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

 

Quyền gặp, làm việc của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Quyền gặp, làm việc của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra



Khoản 4 Ðiều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

Ðiều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.

Khoản 1 Ðiều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Người bào chữa có quyền: (a) Gặp, hỏi người bị buộc tội; (b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can”. Khoản 3 Ðiều 22 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 cũng quy định: “Người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ, tạm giam đang khám bệnh, chữa bệnh; phải xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa”.

Ðiều 10 Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT ngày 23-1-2018 của Bộ Công an – Bộ Quốc phòng – TAND tối cao – Viện KSND tối cao quy định: “Khi nhận được văn bản thông báo người bào chữa cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ quan đang thụ lý vụ án thì cơ sở giam giữ tổ chức cho người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật; Trường hợp cần phải giám sát cuộc gặp thì Thủ trưởng, người có thẩm quyền của cơ quan đang thụ lý vụ án phối hợp với cơ sở giam giữ tổ chức giám sát…”.

Kể từ thời điểm Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực vào đầu năm 2018 đến nay, đã có bước chuyển biến căn bản trong nhận thức và thực tế từ phía các cơ quan và những người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm thực thi các quy định nêu trên, tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo, đương sự trong nhiều vụ án hình sự.

Ðó cũng là cơ sở cho việc Hội đồng xét xử quyết định, ban hành bản án xuất phát từ kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, quyền gặp mặt, trao đổi, làm việc của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam còn gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí bị cản trở từ phía một số cơ quan điều tra và điều tra viên, chủ yếu do nhận thức không đúng, không đầy đủ về quyền gặp, làm việc của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra tại cơ sở giam giữ.

Hiện nay, rất nhiều cơ quan điều tra, điều tra viên, cán bộ điều tra, cán bộ quản lý cơ sở giam giữ vẫn nhận thức và yêu cầu thực hiện trên thực tế trong giai đoạn điều tra là việc gặp, tiếp xúc, làm việc, tham dự các buổi hỏi cung của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam phải được sự chấp thuận của cơ quan điều tra hoặc theo kế hoạch hỏi cung của điều tra viên.

Ðiều này đã được các luật sư phản ánh rất nhiều trong các cuộc tọa đàm, hội thảo. Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã tổng hợp, thống kê và báo cáo lãnh đạo Bộ Công an về hàng trăm đơn thư khiếu nại trong nhiều năm qua của luật sư do phải đăng ký, chờ đợi hằng tháng vẫn không được gặp, làm việc với bị can trong giai đoạn điều tra. Ðó là chưa kể, trong các buổi làm việc, hỏi cung, thường các luật sư không được đặt câu hỏi, thậm chí nếu có chỉ được hỏi thăm về sức khỏe, thông tin về tình trạng gia đình mà thôi…

Quyền gặp mặt, tiếp xúc, làm việc riêng của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam bắt nguồn và liên quan trực tiếp từ quyền hiến định cho phép người bị buộc tội có quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa, và đây là cơ sở triển khai hoạt động của luật sư trong tố tụng hình sự. Tinh thần mới của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015, Thông tư liên tịch số 01 nêu trên khẳng định quyền đương nhiên và chủ động của luật sư trong việc gặp người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, trừ trường hợp cần giữ bí mật điều tra trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia theo quy định tại Ðiều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Tất cả các quy định nêu trên cũng không có bất cứ từ ngữ nào quy định về việc luật sư gặp khách hàng trong giai đoạn điều tra bắt buộc phải có mặt điều tra viên hoặc phải được sự chấp thuận trước của cơ quan điều tra.

Như vậy, về mặt pháp lý, như nội dung Ðiểm (a), (b) Khoản 1 Ðiều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định có hai trình tự cuộc gặp của người bào chữa: Thứ nhất, cuộc gặp, làm việc riêng, chủ động của người bào chữa với người bị tạm giữ, tạm giam. Theo đó cơ sở giam giữ phải giải quyết yêu cầu gặp mặt của người bào chữa, trong trường hợp cần thiết thì báo với cơ quan thụ lý vụ án để cử người tham gia giám sát, chứ không thể lấy lý do cơ quan điều tra không đồng ý, hoặc điều tra viên bận không tham dự, để từ chối việc luật sư yêu cầu gặp mặt người bị tạm giữ, tạm giam. Thứ hai, người bào chữa tham dự cuộc làm việc, hỏi cung theo kế hoạch của cơ quan điều tra, điều tra viên; chỉ được đặt câu hỏi khi được điều tra viên đồng ý, nếu được phép đặt câu hỏi và trả lời thì nội dung phải ghi rõ trong biên bản, luật sư đọc lại, xác nhận và ký tên trên biên bản.

Do đó, cùng với các kiến nghị, góp ý bằng văn bản, Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong cuộc gặp đại diện lãnh đạo Bộ Công an vào ngày 23-8-2019 đã đề nghị Bộ Công an sớm ban hành Thông tư mới nhằm hướng dẫn, quán triệt để cơ quan điều tra các cấp, các điều tra viên, cán bộ điều tra, cán bộ có thẩm quyền của cơ sở giam giữ cần nhận thức thống nhất và bảo đảm tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa nói chung và quyền gặp riêng của luật sư với người bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, không bị giới hạn thời gian gặp, làm việc và có hướng dẫn rõ trường hợp nào bị hạn chế gặp hoặc phải có sự giám sát.

Giới luật sư hy vọng điều này sẽ tạo ra một bước đột phá mới trong quá trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng, thực thi nhiệm vụ bảo vệ công lý, tôn trọng sự thật khách quan và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân trong các vụ án hình sự.

LS. Phan Trung Hoài – Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam

 

Nguồn: https://coquandieutravkstc.gov.vn/quyen-gap-lam-viec-cua-luat-su-voi-nguoi-bi-tam-giu-tam-giam-trong-giai-doan-dieu-tra/

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006