Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư tư vấn về tội dâm ô với trẻ em

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư tư vấn về tội dâm ô với trẻ em?

 

Dâm ô với trẻ em là hành vi của người đã thành niên dùng mọi thủ đoạn có tính chất dâm dục với người dưới 16 tuổi nhằm thỏa mãn dục vọng của mình nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân.

*CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM

- Đối với người phạm tội

Chủ thể của tội phạm này có thể là nam hoặc nữ nhưng chủ yếu là nam và nhất thiết phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. 
Hành vi dâm ô được thể hiện đa dạng như: sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của nạn nhân; dùng bộ phận sinh dục của mình chà xát với bộ phận sinh dục của nạn nhân hoặc bắt nạn nhân sờ mó, hôn hít bộ phận sinh dục của mình nhằm thỏa mãn dục vọng, nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân. Nếu có ý định giao cấu với nạn nhân nhưng không giao cấu được thì không phải là dâm ô mà tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em hoặc tội giao cấu với trẻ em.

- Đối với người bị hại

Người bị hại phải là người dưới 16 tuổi, có thể là nữ hoặc nam, nhưng chủ yếu là trẻ em nữ.
Nạn nhân có thể bị người phạm tội cưỡng ép buộc phải thực hiện hành vi dâm ô, nhưng cũng có thể đồng tình với người phạm tội để người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô hoặc tự nguyện thực hiện hành vi dâm ô với người phạm tội.

*CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

- Dâm ô đối với một người 

Phạm tội dâm ô một lần đối với một trẻ em không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 116 BLHS thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 116 BLHS có khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm tù.

- Phạm tội nhiều lần 

Phạm tội dâm ô trẻ em nhiều lần là có từ hai lần trở lên có hành vi dâm ô đối với một trẻ em. Nếu chỉ có hai lần dâm ô, trong đó có một lần người phạm tội chưa đủ 18 tuổi hoặc có một lần người bị hại đủ 16 tuổi thì không bị coi là dâm ô nhiều lần.

- Đối với nhiều trẻ em

Phạm tội dâm ô đối với nhiều trẻ em là trường hợp một người có hành vi dâm ô đối với từ hai trẻ em trở lên. Nếu có hai trẻ em bị dâm ô, nhưng có một trẻ em bị dâm ô khi người phạm tội chưa đủ 18 tuổi thì người phạm tội chỉ bị coi là dâm ô với một người và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 116 BLHS

- Đối với trẻ em và người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh (điểm c khoản 2 Điều 116)

Dâm ô đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh là trường hợp giữa người phạm tội và người bị hại có mối quan hệ, trong đó người phạm tội có nghĩa vụ đối với người bị hại. Nghĩa vụ này xuất phát từ quan hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, quan hệ giáo dục như thầy giáo đối với học sinh, quan hệ chữa bệnh như thầy thuốc đối với bệnh nhân…

- Gây hậu quả nghiêm trọng 

Hậu quả nghiêm trọng do hành vi dâm ô gây ra không giống hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội khác gây ra. Trường hợp dâm ô gây hậu quả nghiêm trọng cần đánh giá một cách toàn diện, khách quan tất cả các tình tiết của vụ án, trên cơ sở đó mà đánh giá có gây ra hậu quả nghiêm trọng hay không. Ví dụ: Do người phạm tội thực hiện hành vi dâm ô với trẻ em bị bắt quả tang, vì xấu hổ nên người bị hại, sau đó không dám đến trường, không dám gặp bạn bè. Hoặc do hành vi dâm ô của người phạm tội mà những người thân của người phạm tội ghen tuông, đánh đập nạn nhân gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Tất nhiên trong trường hợp này người gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%. Tất nhiên trong trường hợp này người gây thương tích cho nạn nhân phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 104 BLHS, còn người có hành vi dâm ô bị coi là gây hậu quả nghiêm trọng.

- Tái phạm nguy hiểm

Người phạm tội dâm ô thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là người đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà còn phạm tội dâm ô, bởi lẽ khoản 1 Điều 116 là tội phạm ít nghiêm trọng còn khoản 2 của Điều 116 là tội phạm nghiêm trọng nên sẽ không có trường hợp tái phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự. Trường hợp nếu người phạm tội dâm ô gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì đã bị truy cứu theo khoản 3 Điều 116 BLHS, nếu có xác định tái phạm nguy hiểm cũng chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt trong phạm vi khung hình phạt theo khoản 3 Điều 116 chứ không có ý nghĩa xác định khung hình phạt. Tuy nhiên nếu không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm cũng như các tình tiết khác thuộc khoản 2 của Điều 116 thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải xác định để làm căn cứ khi quyết định hình phạt.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: phạm tội nhiều lần; đối với nhiều trẻ em; đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 116 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ ba năm tới bảy năm tù. Khi quyết định hình phạt, nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì phạm tội có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 116 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ có một tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 116 BLHS.

- Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng 

Dâm ô gây hậu quả rất nghiêm trọng là trường hợp dâm ô rất nhiều trẻ em, hoặc dâm ô tập trung nhiều tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt theo khoản 2 Điều 116, hoặc dẫn đến gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị hại mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, gây dư luận xấu trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục.
Việc xác định dâm ô gây hậu quả rất nghiêm trọng cũng như việc xác định dâm ô gây hậu quả nghiêm trọng cần phải đánh giá một cách khách quan, toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án, căn cứ vào tình hình xã hội nơi vụ án xảy ra và những tác hại cho xã hội do hành vi dâm ô gây ra.

- Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng 

Dâm ô trẻ em gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp người phạm tội đã có hành vi dâm ô đối với nhiều trẻ em, do hành vi dâm ô mà dẫn đến nhiều trẻ em có lối sống trụy lạc hoặc phạm tội tập trung nhiều tình tiết tăng nặng định khung quy định trong điều luật, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng khác cho xã hội, bị dư luận quần chúng nhân dân lên án. Cũng như việc xác định gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, khi xác định gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, cần chú ý đánh giá một cách toàn diện các tình tiết của vụ án, những hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.
Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 116 BLHS. Do bị truy cứu cùng chung một khung hình phạt cho cả hai trường hợp phạm tội mà mức độ nguy hiểm khác nhau, nên khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định một mức hình phạt cho tương xứng với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng.

Trân trọng

LS Trần Minh Hùng Chuyên Bào Chữa Án Hình Sự Tại Tòa Án, Công An

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

CHÚNG TÔI LÀ HÃNG LUẬT CHUYÊN ÁN VỀ HÌNH SỰ VỚI TỰ TẬN TÂM, UY TÍN, KINH NGHIỆM GIỎI ĐÃ ĐƯỢC NHIỀU BÁO CHÍ, ĐÀI TRUYỀN HÌNH TIN TƯỞNG, TƯ VẤN VỀ CÁC SỰ KIỆN, ÁN NỔI BẬT TRONG NƯỚC.

 

Khi không có luật sư thì Oan, sai và tình trạng bức cung, nhục hình trong án hình sự không chỉ trực tiếp xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm...mà trong nhiều trường hợp, còn tước đoạt cả quyền được sống của con người;

Sự tham gia của Luật sư với vai trò là người bào chữa bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại trong án hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên.

Bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại không chỉ là hoạt động nghề nghiệp mà còn là trách nhiệm xã hội của người luật sư trong việc duy trì công lý. Với suy nghĩ như vậy, chúng tôi luôn sẵn sàng với tinh thần trách nhiệm cao nhất để thực hiện các công việc sau:

1. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ trong trường hợp bắt người khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã từ khi có quyết định tạm giữ;

2. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can từ khi có quyết định khởi tố bị can;

3.Tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho bị cáo từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử;

4. Tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự;

5. Hướng dẫn thân chủ, khách hàng trong việc soạn thảo đơn kháng cáo, đơn đề nghị xin kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật.

 

LS TRẦN MINH HÙNG

Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Luật sư có quyền:

– Luật sư có quyền thu thập tài liệu, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ bị cáo, người thân thích của người này hoặc từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác và đưa ra các tài liệu, đồ vật cần để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Quy định này còn nhằm giúp Cơ quan tiến hành tố tụng lưu ý để điều chỉnh hoạt động cho đúng hướng và có cách nhìn toàn diện về vụ án tránh kết tội oan bị cáo. Người bào chữa có quyền đưa ra các yêu cầu chính đáng để Cơ quan tiến hành tố tụng bổ khuyết và khắc phục kịp thời các thiếu sót trong hoạt động tố tụng.

– Luật sư có quyền gặp mặt mặt bị cáo đang bị tạm giam, quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật. Việc người bào chữa có quyền gặp thân chủ của mình có ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài việc động viên tinh thần cho bị cáo, người bào chữa có cơ hội tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với bị cáo về những vấn đề có liên quan đến vụ án, là những vấn đề chưa được thể hiện trong hồ sơ để từ đó người bào chữa có cơ sở xác định phương hướng bào chữa một cách hiệu quả.

– Luật sư có quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà. Phiên toà là cuộc điều tra công khai nhằm kiểm tra tính hợp pháp của các chứng cứ qua việc xét hỏi bị cáo, người làm chứng,… nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án để Hội đồng Xét xử có phán quyết chính xác. Xét hỏi và tranh luận là những hoạt động quan trọng trong quá trình xét xử vụ án tại phiên toà. Đối với người bào chữa, nhiệm vụ đảm bảo quyền lợi cho bị cáo tại phiên toà có ý nghĩa rất quan trọng, bởi tại phiên toà, việc đối chất và đưa ra chứng cứ mới, bác bỏ các chứng cứ buộc tội có nhiều thuận lợi khi có mặt tất cả những người tham gia tố tụng. Chính vì vậy, người bào chữa phải chú ý lắng nghe những câu hỏi và trả lời, so sánh, đối chiếu với các tình tiết của vụ án và phát hiện những tình tiết có lợi cho bị cáo và lời khai không phù hợp với các tình tiết khác trong vụ án để kịp thời ra những câu hỏi yêu cầu những người tham gia tố tụng làm rõ khi được chủ toạ phiên toà cho phép.

Với kiến thức, kinh nghiệm mà Luật sư có được, cùng với quyền hạn mà pháp luật đã trao cho. Là vũ khí để luật sư bào chữa bảo vệ thân chủ của mì nh cũng như bảo vệ công lý.

Sự an toàn pháp lý và quyền lợi của các bạn là trách nhiệm của chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn Qúy khách đã tin tưởng chúng tôi trong thời gian qua.

Bài Bào Chữa Cho Bị Cáo Về Tội Vi Phạm Giao Thông Của Luật Sư Trần Minh Hùng

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do   - Hạnh phúc

NỘI DUNG BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO HUỲNH LÊ MINH NHỰT

Tôi là LS Trần Minh Hùng - Văn phòng luật sư Gia Đình - Đoàn Luật sư TP.HCM bào chữa cho bị cáo Huỳnh Lê Minh Nhựt như sau:

- Về nhân thân: Minh Nhựt không có tiền án, tiền sự, tuổi đời còn trẻ, hoàn cảnh gia đình lại khó khăn.

- Riêng bản thân Huỳnh Lê Minh Nhựt cũng bị tỷ lệ thương tích do tai nạn gây ra là 26% theo án kết luận giám y số: 374/TgT.16 ngày 14/6/2016. Nhựt đã tốn kém chi phí chữa trị và rất ám ảnh về vụ tai nạn của bản thân và bạn gái là chị Nhung.

- Minh Nhựt đang cấp dưỡng cho người bị tai nạn là Hà Thị Ngọc Nhung. Chị Nhung bị tai nạn tỷ lệ thương tích 74%, mặc dù có bãi nại không yêu cầu bồi thường dân sự (đơn ngày 05/8/2016) nhưng do gia đình chị Nhưng thuộc diện chính sách khó khăn, số tiền để điều trị cho chị Nhung quá lớn không đủ tiền điều trị phải vay mượn người khác. Trước tình cảnh chị Nhung điều trị không thể tham gia lao động và sự khó khăn của phía gia đình nạn nhân, Nhựt vẫn tự nguyện thường xuyên lui tới chăm sóc chị Nhung và đi làm kiếm tiền phụ gia đình Nhung trả nợ nần, thuốc men. Điều đó thể hiện sự ăn năn hối lỗi, sám hối của Huỳnh Lê Minh Nhựt, tích cực khắc phục thiệt hại do mình đã gây ra. Hiện nay Nhung vẫn đang điều trị và Nhựt mặc dù chưa thôi hẳn bệnh vẫn đi làm phụ tiền cho Nhung thể hiện sự khắc phục hậu quả.

- Phía gia đình nạn nhân ngày 31/03/2017 cũng đã làm đơn bãi nại đến Ban lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 để xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Nhựt để cho Nhựt có thể đi làm phụ gia đình nạn nhân trả nợ nần trong quá trình điều trị và chăm sóc sức khỏe cho chị Nhung. Gia đình nạn nhân thuộc diện gia đình chính sách, chỉ có cha nạn nhân là lao động chính, rất cần Nhựt đi làm kiếm thu nhập bù đắp tổn thất đã gây ra.

- Xét về yếu tố lỗi, bản thân Nhung và Nhật đều chưa có Giấy phép lái xe trên 50cm3, xe của ba Nhung, Nhung để Nhựt lái nên lỗi xảy ra tai nạn gây thương tích cho Nhung không hoàn toàn thuộc Nhựt, Nhung có 1 phần lỗi lớn và cha Nhung là ông...cũng có phần lỗi khi giao xe cho Nhung và Nhung giao xe cho Nhựt. Xét theo truyền thống của người Việt Nam, khi đi đâu đó chung với nhau, việc đàn ông điều khiển phương tiện tham gia giao thông chở phụ nữ là chuyện đương nhiên, Nhựt và Nhung có mối quan hệ tình cảm yêu nhau đã lâu. Tại nạn xảy ra là sự việc đau lòng mà cả Nhung và Nhựt đều không mong muốn và chưa hề nghĩ đến trước đó, Nhựt không cố ý và không nhận thức đầy đủ hậu quả về hành vi của mình. Nhựt chưa có bằng lái xe nhưng việc Nhựt vượt bên phải xe chuyên dùng (xe ép rác là có căn cứ theo quy định tại điều 14 luật giao thông đường bộ (không thể vượt bên trái xe chuyên dùng). Xe ép rác là một dạng xe chuyên dùng theo quy định tại Khoản 3 Điều 3Thông tư 91/2015/TT-BGTVT.

Người làm chứng tên Nguyễn Văn Trọng khai xe ô tô va chạm phía sau xe Nhựt.

 Nhựt khai tài xế va chạm còn điều khiển xe cho cán lên 2 lần đối với Nhung. Nhựt khai tài xế có mùi rượu,Người làm chứng Hoàng Oanh khai người dân yêu cầu tài xế Lê Văn Thiên dừng lại, chứ không phải Thiên tự dừng lại như Thiên tự khai....nhưng các chi tiết này vẫn chưa được cơ quan điều tra làm rõ. Đề nghị HĐXX xem xét các vấn đề này cần làm rõ trách nhiệm của tài xế. Việc Hà Văn Lâm, Nhựt làm bãi nại không phải để miễn trách nhiệm của tài xế theo quy định tại điều 105 Bộ luật hình sự.

Người làm chứng Hoàng Oanh khai người dân yêu cầu tài xế Lê Văn Thiên dừng lại, chứ không phải Thiên tự dừng lại như Thiên tự khai.

Với những vấn đề trên, yêu cầu áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Huỳnh Lê Minh Nhựt, áp dụng điểm a, b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, Minh Nhựt lần đầu phạm tội, thành thật ăn năn hối cải, tích cực khắc phục thiệt hai, làm giảm bớt thiệt hại, gia đình nạn nhân có đơn bãi nại, nhân thân thân tốt, có nơi thường trú, chỗ ở rõ ràng, có công ăn việc làm, gia đình khó khăn. Căn cứ điều 47 Bộ luật hình sự, điều 60 Bộ luật hình sự kính mong HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo, không nên áp dụng hình phạt tù với bị cáo bị cáo Nhựt có thể kiếm thu nhập khắc phục thiệt hại do vụ tai nạn gây ra.

Về yêu cầu bồi thường về dân sự do Nhựt bị tổn hại.

Khoản 3 Điều 601 Bộ Luật Dân sự 2015:

Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật.

2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Căn cứ Điều 590 BLDS 2015 Quy định về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

 

Đồng thời căn cứ Nghị quyết số 03/2006 của HĐTP tòa án nhân dân tối cao quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Tòa án nhân dân tối cao.

Yêu cầu Công ty HTX Công Nông Bồi thường tổn thất tinh thần: 60.500.000 đồng về tổn thất tinh thần cho bị cáo Nhựt.

Trên đây là ý kiến đưa là của tôi, kính mong HĐXX xem xét chấp nhận.

Trân trọng cảm ơn.

                                                                   TP.HCM, ngày   tháng   năm 2017

Dịch Vụ Luật Sư Chuyên Bào Chữa Hình Sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

HÃNG LUẬT CHUYÊN BÀO CHỮA HÌNH SỰ.
 
Quyền bào chữa là quyền dùng lý lẽ, đưa ra các chứng cứ, tài liệu để xác định rằng bị can, bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. 

Theo quy định của pháp luật thì bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo được ghi nhận tại Điều 132 Hiến Pháp 1992. Tại Điều 11 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 cũng quy định rõ : “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. 

Trong thực tiễn, vì những lý do khác nhau nên không phải bất kỳ người nào rơi vào vòng lao lý cũng có khả năng tự bào chữa một cách có hiệu quả. Do vậy, pháp luật tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền bào chữa của mình bằng cách nhờ người khác, trong đó có luật sư. 

Luật sư là người có khả năng giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý có hiệu quả nhất vì luật sư là người có trình độ, kiến thức pháp luật, tinh thông nghiệp vụ và là người có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động bào chữa. Khi tác nghiệp luật sư sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 

Đối với con người, cái quý nhất là sự tự do. Các luật sư hình sự VPLS GIA ĐÌNH thấu hiểu và luôn luôn trăn trở trước cái “Được” và “Mất” của thân chủ. Chính vì thế chúng tôi luôn lựa chọn những luật sư đủ “Tài”, đủ “Đức” để tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự. Mục đích cơ bản của chúng tôi là làm sáng tỏ những tình tiết minh oan hoặc gỡ tội, hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp lý một cách tốt nhất để họ được "Sống" và "Tự do"...

Tham gia tố tụng hình sự là một trong những dịch vụ pháp lý đầu tiên của VPLS GIA ĐÌNH, được thực hiện bởi các luật sư hình sự giỏi, nhiều kinh nghiệm, có bản lĩnh, tâm huyết với nghề luật sư và có trách nhiệm cao trước khách hàng.

VPLS GIA ĐÌNH cử luật sư hình sự tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa (luật sư bào chữa) cho bị can, bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự:

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ trong trường hợp bắt người khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã từ khi có quyết định tạm giữ

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa (luật sư bào chữa) cho bị can từ khi có quyết định khởi tố bị can

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho bị cáo từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử
VPLS GIA ĐÌNH cử luật sư hình sự tham gia các gia đoạn khởi tố, điều tra, tuy tố, xét xử theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng trong các vụ án chỉ định (các vụ án mà bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử ở khung hình phạt có mức án cao nhất; các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần…) 

Trường hợp tham gia từ giai đoạn điều tra, truy tố luật sư VPLS GIA ĐÌNH hướng dẫn bị can, bị cáo khai ngay từ khi bị hỏi cung trước các cơ quan điều tra, viện kiểm sát tránh ép cung, mớm cung, dụ cung để xác định sự thật khách quan của vụ án. Khách hàng được tư vấn kịp thời để không bỏ lỡ cơ hội hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Khi thực hiện quyền năng tố tụng của mình luật sư VPLS GIA ĐÌNH giúp cơ quan điều tra thu thập chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đặc biệt làm rõ những chứng cứ vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, hạn chế việc oan sai và vi phạm tố tụng trong quá trình điều tra, tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án được chính xác, nhanh chóng, kịp thời. 

Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, luật sư hình sự VPLS GIA ĐÌNH có vai trò đặc biệt quan trọng
Luật sư nghiên cứu hồ sơ vụ án: Luật sư nhanh chóng phát hiện những tình tiết mâu thuẫn, những chứng cứ không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án cần được làm rõ... 

Luật sư chuẩn bị luận cứ và xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Phân tích, đánh giá chứng cứ, chú ý đến những tình tiết có lợi để minh oan hoặc gỡ tội cho bị cáo. Bằng luận cứ bào chữa hợp tình, hợp lý và có sức thuyết phục của mình VPLS GIA ĐÌNH giúp đỡ thân chủ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, đồng thời giúp Hội đồng xét xử ra bản án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
VPLS GIA ĐÌNH cử luật sư giỏi có khả năng bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong các vụ án hình sự: 

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại trong vụ án hình sự. 

Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì luật sư VPLS GIA ĐÌNH có thể thay mặt họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa:

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn dân sự trong vụ án hình sự

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. 

Ngoài ra luật sư hình sự VPLS GIA ĐÌNH còn có thể hướng dẫn thân chủ (khách hàng) soạn thảo đơn kháng cáo, đơn đề nghị xin kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo đúng quy định của pháp luật. 

Liên hệ ngay để được sử dụng dịch vụ luật sư hình sự tốt nhất!  

Quan Điểm LS Trần Minh Hùng Về Tội Đánh Bạc

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Tội đánh bạc được quy định tại Điều 248 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 thì giá trị tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc là từ 2.000.000 đồng (2 triệu đồng) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn theo Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016 thì giá trị tài sản dùng để đánh bạc đã thay đổi từ 2 triệu đồng lên 5.000.000 đồng (5 triệu đồng), cụ thể điều luật quy định như sau:

1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Áp dụng Nghị quyết số: 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội tình tiết có lợi cho bị can bị cáo: Điều 1

1.Kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2016, Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự năm 2015) được áp dụng như sau:

a) Tất cả các điều khoản của Bộ luật hình sựnăm 2015được áp dụng đểkhởi tố,điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 ngày01tháng7năm 2016;

b) Các điều khoản của Bộ luật hình sựnăm 2015xóa bỏ một tội phạm, xóabỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt,xóaán tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt,xóaán tích;

Áp dụng quy định mới, với hành vi đánh bạc dưới 5 triệu đồng, ngày 29/3, TAND Tối cao ra Công văn 80/TANDTC-PC hướng dẫn xử lý như sau. Người thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật dưới 5 triệu đồng, thuộc một trong các trường hợp: chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc tổ chức đánh bạc; chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc; đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc nhưng đã được xóa án tích sẽ bị xử lý theo hai hình thức.

Từ ngày 9/12/2015 đến hết 30/6/2016, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì tòa án phải mở phiên tòa và căn cứ Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Từ 1/7/2016, nếu hành vi vi phạm mới bị phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì áp dụng Bộ luật hình sự 2015 để tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật Hình sự, “đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.

Khi xác định trách nhiệm hình sự với người đánh bạc thì không tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ từng lần để xem xét. Cụ thể như sau:

a) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 2.000.000 đồng) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc;

b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;

c) Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự;

d) Trường hợp đánh bạc từ 5 lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật hình sự.

Như vậy, số tiền hoặc giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự (mức tối thiểu là từ 2.000.000 đồng trở lên). Việc xác định chính xác số tiền này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội. Về nội dung này, Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP quy định: “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:

a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;

b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;

c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.

Như vậy, ngoài tiền và hiện vật sử dụng để chơi bạc (được trực tiếp tại chiếu bạc), những tài sản trên người gồm cả tiền và hiện vật bị cơ quan chức năng thu giữ mà “có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc” thì cũng sẽ được xác định là tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc. Nếu tổng số tiền thu được trực tiếp tại chiếu bạc cùng với số tiền, hiện vật thu giữ trên người (và chứng minh được là sẽ sử dụng để đánh bạc) từ 2.000.000 đồng trở lên thì bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc theo quy định tại Điều 248 Bộ luật Hình sự; số tiền, hiện vật này sẽ bị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ theo quy định trên thì cơ quan công an được quyền kiểm tra trong người của những người con bạc.

Việc cơ quan công an còng tay người đánh bạc khi họ không chống đối, đánh đập họ là điều pháp luật cấm. Không có bất kỳ quy định nào cho phép công an được đánh người. Hơn nữa, theo quy định pháp luật một người chưa bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của tòa án nên khi chưa có bất kỳ bản án nào tuyên án họ có tội thì họ vẫn là công dân bình thường và chưa được coi họ là tội phạm.

Trong mọi trường hợp việc đánh đập hay bắt giữ người khác trái pháp luật là điều pháp luật cấm, tình trạng này dẫn tới dễ bị oan sai, ép cung, nhục hình. Đây là hành vi rất khó chấp nhận và cần xử lý nghiêm những cán bộ có hành vi sai trái nêu trên.              

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006