Thẩm Quyền Tòa Án Giải Quyết Ly Hôn
Điều 36 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 quy định về thẩm quyền của các Tòa án chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện như sau:
“Điều 36. Thẩm quyền của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện
1. Tòa dân sự Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này.
2. Tòa gia đình và người chưa thành niên Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này.
3. Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện chưa có Tòa chuyên trách thì Chánh án Tòa án có trách nhiệm tổ chức công tác xét xử và phân công Thẩm phán giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện.”
Như vậy, Việc giải quyết những vụ việc hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện (quận, huyện) không phải là tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Theo đó, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ như sau:
“Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;
c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.…”
Như vậy, thẩm quyền sẽ thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện (quận, huyện) nơi anh chị đang cư trú chứ không phải Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Và có hai trường hợp về Thẩm quyền của Tòa án như sau:
- Trong trường hợp đơn phương xin ly hôn: Dựa theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân dân quận, huyện nơi chồng chị đang cư trú.
- Trong trường hợp thuận tình ly hôn : Dựa theo điểm h khoản 2 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân dân quận, huyện nơi chị hoặc chồng chị cư trú.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÓ KHĂN KHI THỰC HIỆN THỦ TỤC LY HÔN ĐƠN PHƯƠNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÓ KHĂN KHI THỰC HIỆN THỦ TỤC LY HÔN ĐƠN PHƯƠNG
Theo quy định trên thì vợ hoặc chồng đều có quyền đơn phương yêu cầu ly hôn khi thấy cuộc sống hôn nhân của mình không thể kéo dài. Trên thực tế, rất nhiều trường hợp một bên đơn phương xin ly hôn, bên kia không đồng ý, đã tìm mọi cách gây khó khăn, cản trở, khiến việc ly hôn kéo dài, phức tạp... Giải quyết được những vụ việc như thế, phải mất nhiều thời gian, công sức của đương sự và tòa án.
1/ Trường hợp 1: Bên khởi kiện không có các giấy tờ cần thiết theo quy định khi ly hôn:
Vấn đề thường gặp phải đối với ly hôn đơn phương là bên khởi kiện yêu cầu ly hôn thường không có giấy tờ cần thiết theo quy định của pháp luật để nộp lên Tòa như: không giữa bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, không có CMND và Hộ Khẩu của bên kia, không có Bản sao Giấy khai sinh của con….
2/ Trường hợp 2: Anh T cố tình gây “rắc rối” khi biết ý đồ của vợ mình ly hôn xong sẽ được gia đình lo xuất cảnh, nên anh ta tìm mọi cách kéo dài thời gian nhằm phá kế hoạch của vợ, theo kiểu “ăn không được phá cho hôi”. Chị L – vợ anh T kể: “Tôi nộp đơn xin ly hôn cách đây hơn mười tháng, Tòa án đã thụ lý, mời các bên đến để viết lời khai và hòa giải. Tuy nhiên, các lần đầu tòa mời chỉ có tôi đến dự, dù anh T vẫn nhận được giấy mời của tòa. Những lần sau đó anh lại tiếp tục làm đơn gởi cho tòa qua đường bưu điện, xin phép vắng mặt. Sau một thời gian, cảm thấy không thể vắng mặt mãi, chồng tôi lại đến tòa làm các thủ tục viết bản khai, dự phiên hòa giải.
Tuy nhiên không biết đã được ai tư vấn, chồng tôi làm đơn yêu cầu chia tài sản chung là chiếc xe gắn máy tôi đang đi, tranh chấp với tôi việc xin nuôi đứa con chung bốn tuổi. Anh cho rằng, tôi sẽ xuất cảnh đem con đi nước ngoài nên muốn xin nuôi con. Anh ấy còn khai ra các khoản nợ chung (do anh tự vay mượn của người thân, bạn bè) chỉ với năm triệu, mười triệu đồng dùng để chi xài sinh hoạt trong gia đình, để tòa án phải triệu tập các “chủ nợ” đến giải quyết với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, mà trong số đó, có người đang ở nước ngoài. Vụ việc từ đơn giản đã trở nên phức tạp, rối rắm nên kéo dài suốt hơn mười tháng, tòa vẫn chưa thể đưa vị án ra xét xử được!”.
Hướng giải quyết vụ việc này:
Trong trường hợp này, nếu người chồng yêu cầu giải quyết vấn đề tài sản chung, vấn đề nợ chung thì điều đầu tiên là phải yêu cầu người chồng đóng tạm ứng án phí cho những yêu cầu của mình.Hết thời gian Tòa yêu cầu phải đóng tạm ứng án phí, nếu người chồng không đóng thì Tòa án có nghĩa vụ tiếp tục giải quyết yêu cầu ly hôn đơn phương cho chị vợ.
Bên cạnh đó, việc chứng minh các khoản nợ đó có thực hay không cũng là một khó khăn, yêu cầu nguwoif chồng chứng minh, nếu không sẽ tách giải quyết bằng một vụ kiện khác, về sau. Trên thực tế, ly hôn còn có những vướng mắc, phức tạp về tranh chấp, phân chia tài sản, nợ nần. Để việc giải quyết ly hôn được đơn giản, nhanh chóng, đương sự có thể tách ra, giải quyết việc ly hôn và con chung trước. Phần tài sản, nợ chung các bên sẽ tự thỏa thuận với nhau, nếu không thỏa thuận được, sẽ giải quyết bằng một vụ kiện khác, về sau.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Hồ sơ, thủ tục đơn phương ly hôn
Hồ sơ, thủ tục đơn phương ly hôn :
Ly hôn đơn phương là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của một bên (vợ hoặc chồng). Đơn phương ly hôn thể hiện ý chí ly hôn của một bên không có sự đồng thuận của bên kia.
Khoản 1, Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình thì “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn”.
Thủ tục pháp lý đơn phương ly hôn bao giờ cũng phức tạp so với thuận tình ly hôn trong quá trình giải quyết tại Tòa án. Những nội dung quan hệ vợ chồng như vấn đề tình cảm, quan hệ con cái và tài sản được giải quyết tại Tòa án không được sự hợp tác của vợ (hoặc chồng) sẽ tốn nhiều thời gian giải quyết. Hai bên không thống nhất được nội dung ly hôn do đó các bên có trách nhiệm đưa ra các căn cứ chứng minh và bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật để xem xét giải quyết. Chính vì những mâu thuẫn này là nguyên nhân chính dẫn đến thời gian xét xử các vụ án ly hôn thường kéo dài, phức tạp.
Hồ sơ đơn phương ly hôn gồm:
- Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính);
- Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của vợ và chồng (nguyên đơn và bị đơn) (bản sao có chứng thực);
- Giấy khai sinh của các con (bản sao có chứng thực);
- Bản sao Hộ khẩu thường trú, tạm trú của nguyên đơn và bị đơn;
- Đơn xin ly hôn (Theo mẫu)
- Các giấy tờ chứng minh về tài sản: Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở…
Thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Thẩm quyền xét xử về hôn nhân (không có yếu tố nước ngoài) thuộc TAND cấp huyện, nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn hoặc nơi bị đơn có tài sản.
Theo quy định của Điều 52 Bộ luật dân sự 2005, thì “1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống. 2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này (Điều 52 BLDS) thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống”.
Tòa án nhân dân có quyền xử cho ly hôn hoặc bác đơn yêu cầu ly hôn.
Theo luật hôn nhân và gia đình, khi vợ hoặc chồng có đơn xin ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải, xem xét giải quyết. Tòa án căn cứ trên cơ sở pháp luật và tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận các bên. Nếu hòa giải không có kết quả, thì Tòa án đưa vụ án ly hôn ra xét xử. Và nếu xét thấy có đủ căn cứ cho ly hôn thì Tòa án xử cho ly hôn.
Thời gian giải quyết ly hôn :
Trường hợp vợ hoặc chồng đơn phương xin ly hôn, theo quy định của Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thời gian chuẩn bị xét xử vụ án ly hôn tối đa là 04 tháng, nếu vụ án có tính chất phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì được gia hạn nhưng không quá 02 tháng. Trong thời hạn 01 tháng kế từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trong trường hợp có lý do chính đáng, thời hạn này là 02 tháng. Trong thực tế, thời gian giải quyết vụ án Ly hôn có thể ngắn hơn hoặc kéo dài hơn thời gian mà luật qui định tùy thuộc vào tính chất của từng vụ án.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Vướng mắc trong thụ lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật và thụ lý ly hôn
Vướng mắc trong thụ lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật và thụ lý ly hôn
Khoản 2 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này”. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 không quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự, nên Viện kiểm sát nhân dân không có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Vì vậy, khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình cần bỏ quyền khởi kiện của Viện kiểm sát nhân dân cho phù hợp.
Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Cơ quan dân số và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ trong phạm vi, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp Luật Hôn nhân và gia đình quy định”.
Theo khoản 3 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em (nay là Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em), Hội Liên hiệp Phụ nữ có quyền yều cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trước đây, theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án thụ lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật là vụ án dân sự (vừa giải quyết chấm dứt quan hệ trái pháp luật, vừa giải quyết tài sản, nuôi con). Hiện nay, theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, thì hủy việc kết hôn trái pháp luật là yêu cầu về hôn nhân gia đình (việc dân sự), trong khi đó, Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự lại chỉ giới hạn quyền khởi kiện “vụ án”. Sự thiếu thống nhất giữa Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất, hiện nay việc hủy kết hôn trái pháp luật (mặc dù là việc dân sự) nhưng Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ vẫn có quyền khởi kiện tại Tòa án vì lợi ích chung để được bảo vệ lợi ích của các chủ thể do họ “không biết” hoặc “không dám” yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật; Cách hiểu thứ hai, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định quyền khởi kiện vụ án nên việc dân sự không thuộc thẩm quyền của cơ quan này, mặt khác, Điều 312 của Bộ luật Tố tụng dân sự chỉ đề cập về đơn yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự của mình chứ không yêu cầu khởi kiện vì lợi ích chung. Vì vậy, nếu các cơ quan, tổ chức trên khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện do không đúng thẩm quyền.
Theo chúng tôi, cần sửa đổi quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cho thống nhất với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, mặt khác Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự cũng cần điều chỉnh quyền khởi kiện vụ, việc dân sự để mở rộng phạm vi quyền khởi kiện vì lợi ích chung.
2. Quyền yêu cầu ly hôn (trong trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn)
Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, quy định: “Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn, thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này; nếu có yêu cầu về quyền nuôi con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật này”.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định những tranh chấp về hôn nhân gia đình (tại Điều 27) và những yêu cầu về hôn nhân gia đình (Điều 28) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bên cạnh đó, theo Nghị quyết số 35/2010/QH10 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2010, thì những trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn khác tính theo mốc thời gian trước ngày 03/01/1987 được công nhận là vợ chồng; từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 phải đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm và từ ngày 01/01/2001 thì không được công nhận là vợ chồng. Hiện nay, việc thụ lý giải quyết các trường hợp có đơn yêu cầu ly hôn theo mốc thời gian mà Nghị quyết 35 của Quốc hội quy định còn lúng túng, cụ thể:
Đối với trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn khác trước ngày 03/01/1987 không có giấy chứng nhận kết hôn, nên thông thường đưa ra các chứng cứ (sổ hộ khẩu, giấy khai sinh con chung của hai người,...) hoặc có xác nhận của Ủy ban nhân dân nơi cư trú thì được Tòa án thụ lý. Thực tế, có những trường hợp chuyển địa điểm cư trú hoặc Ủy ban nhân dân không xác nhận, thì rất khó khăn để được Tòa án thụ lý vụ án ly hôn.
Đối với trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn từ ngày 01/01/2001 thì còn lúng túng, chẳng hạn: Anh Hòa và chị Thanh (cư trú tại thành phố M) chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2004 không có đăng ký kết hôn. Hai người sinh được một người con chung là cháu Tân vào năm 2006. Năm 2008, anh Hòa vào thành phố Hồ Chí Minh làm ăn có quen biết với chị Thoa và tháng 9/2011 đưa chị Thoa về quê (thành phố M) đăng ký kết hôn. Chị Thanh đến đánh ghen và có đơn gửi Uỷ ban nhân dân các cấp yêu cầu không được đăng ký kết hôn vì chị đang là vợ hợp pháp. Uỷ ban nhân dân tiến hành hòa giải để anh Hòa và chị Thanh giải quyết ổn thỏa chuyện gia đình mới tiến hành đăng ký kết hôn với chị Thoa. Vì vậy, tháng 2/2012 anh Hòa có đơn gửi Tòa án thành phố M yêu cầu ly hôn với chị Thanh. Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện vì không xuất trình được giấy đăng ký kết hôn. Anh Hòa khiếu nại theo pháp luật tố tụng dân sự về việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Hiện nay, có các ý kiến khác nhau như sau: Ý kiến thứ nhất cho rằng, Tòa án thụ lý yêu cầu ly hôn theo Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, sau đó tuyên bố không công nhận vợ chồng theo khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình; Ý kiến thứ hai cho rằng, nếu thụ lý yêu cầu ly hôn là sai vì đoạn 2 Điều 87 chỉ ghi Tòa án “thụ lý” mà không rõ thụ lý yêu cầu gì? Nếu Tòa án thụ lý yêu cầu ly hôn thì phải có giấy tờ chứng minh là vợ chồng, chứ không thể thụ lý tùy tiện; Ý kiến thứ ba cho rằng, phải xem xét hai trường hợp: Nếu anh Hòa chỉ yêu cầu giải quyết quan hệ nhân thân (tuyên bố chấm dứt quan hệ với chị Thanh) thì không xem xét giải quyết. Việc Tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng là không cần thiết, vì thực chất họ không phải là vợ chồng thì Tòa án tuyên bố không có ý nghĩa; nếu anh Hòa yêu cầu giải quyết việc nuôi con hoặc tranh chấp tài sản chung thì xem xét giải quyết (hậu quả của việc sống chung) mà thôi.
Chúng tôi cho rằng, ý kiến thứ ba là hợp lý, vì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định không rõ ràng về điều kiện đăng ký kết hôn. Từ ngày 01/01/2001, pháp luật quy định điều kiện đăng ký kết hôn là bắt buộc nên mọi trường hợp phải tuân theo, nếu nam nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn thì phải biết, buộc phải biết về hậu quả xảy ra. Vì vậy, Tòa án không cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng nữa mà chỉ giải quyết hậu quả phát sinh (nuôi con, tài sản) nếu có yêu cầu. Vì vậy, theo chúng tôi, đoạn 2 Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không phù hợp với thực tế hiện nay.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (đều được sửa đổi, bổ sung năm 2010) là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các vụ việc hôn nhân gia đình. Để sửa đổi các quy định của các luật này một cách toàn diện, cần có quá trình tập hợp, rà soát lại những quy định thiếu thống nhất, chồng chéo nhau. Trong thời gian chờ sửa đổi, bổ sung, thì Tòa án nhân dân dân tối cao có các văn bản hướng dẫn thi hành để cho các địa phương áp dụng thống nhất pháp luật.
TS. Đoàn Đức Lương
Nguồn: Tập chí dân chủ và pháp luật

Luật Sư Tư Vấn Ly Hôn Nhanh Tại Tòa Án
- Đơn xin ly hôn (theo mẫu). Nếu hai người thuận tình ly hôn thì đơn ly hôn của vợ hoặc chồng phải có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc sứ quán Việt Nam tại nước ngoài.
- Bản sao Giấy CMND (Hộ chiếu); Hộ khẩu (có Sao y bản chính).
- Bản chính giấy chứng nhận kết hôn (nếu có), trong trường hợp mất bản chính giấy chứng nhận kết hôn thì nộp bản sao có xác nhận sao y bản chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nhưng phải trình bày rõ trong đơn kiện.
- Bản sao giấy khai sinh con (nếu có con).
- Bản sao chứng từ, tài liệu về quyền sở hữu tài sản (nếu có tranh chấp tài sản).
- Nếu hai bên kết hôn tại Việt Nam, sau đó vợ hoặc chồng xuất cảnh sang nước ngoài (không tìm được địa chỉ) thì phải có xác nhận của chính quyền địa phương về việc một bên đã xuất cảnh và đã tên trong hộ khẩu.
- Nếu hai bên đăng ký kết hôn theo pháp luật nước ngoài muốn ly hôn tại Việt Nam thì phải hợp thức lãnh sự giấy đăng ký kết hôn và làm thủ tục ghi chú vào sổ đăng ký tại Sở Tư pháp rồi mới nộp đơn xin ly hôn. Trong trường hợp các bên không tiến hành ghi chú nhưng vẫn muốn ly hôn thì trong đơn xin ly hôn phải trình bày rõ lý do không ghi chú kết hôn.
Thời hạn mở phiên tòa: Từ 1 đến 2 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Trân trọng cảm ơn.
ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Các bài khác...
Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng
Hotline:0972238006