Luật sư tư vấn vì sao có di chúc vẫn phải xác nhận hàng thừa kế
1. Tại sao có di chúc rồi vẫn phải xác nhận hàng thừa kế?
VD 3: Ông A có di chúc để lại toàn bộ tài sản cho con trai là ông B, khi ông A chết, vợ và các con ông A vẫn còn sống và di chúc được xác định là hợp pháp và có hiệu lực. Tuy nhiên vẫn phải yêu cầu xác nhận đầy đủ thông tin về cha, mẹ, vợ, các con khác của ông A mặc dù không có tên trong di chúc hợp pháp của ông A bởi vì quy định sau:
Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, theo đó: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
Như vậy kể cả di chúc không cho những người nêu trong điều luật trên được hưởng thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, không phụ thuộc di chúc cho ai.
2. Phát sinh tranh chấp giữa những người thừa kế
Xây dựng tình huống thể hiện phát sinh tranh chấp giữa những người thừa kế về tài sản thừa kế và di sản thừa kế vừa được chia theo di chúc vừa được chia theo pháp luật.
Ông A với bà B là vợ chồng trong quá trình chung sống có con chung là anh C và chị D .
Năm 1990, ông A và bà B phát sinh mâu thuẫn và đã ly hôn. Họ thống nhất thỏa thuận bà B nhận cả ngôi nhà đang ở (và nuôi chị D), ông A nuôi anh C và được chia một số tài sản trị giá là 80 triệu đồng. Năm 2000 ông A tiết kiệm được 150 triệu đồng và ông xây dựng 1 căn hộ khác. Tháng 2002 ông A kết hôn với bà T sinh ra được 2 người con là anh E và chị H. Hai ông bà sống trong căn nhà mới này và ông A tuyên bố nhà và số tiền 80 triệu đồng ông đang cất giữ là của riêng không nhập vào tài sản chung.
Tháng 7/2017 ông A bị tai nạn chết để lại di chúc, trong di chúc có nói rõ là cho anh C hưởng 1/2 di sản của ông. Riêng ngôi nhà ông để lại cho bà T dùng làm nơi thờ cúng mà không chia thừa kế. Tháng 1/2018, anh C yêu cầu bà T chuyển giấy tờ nhà đất cho mình nhưng bà không chịu nên anh C đã xảy ra xô xát gây thương tích cho bà T.
Khi biết tin ông A qua đời chị D đến nhà bà T và anh A đòi chia di sản mà ông A để lại do chị D cũng là con đẻ của ông A. Nhưng anh C và bà T không đồng ý và xảy ra cãi vã .Đến tháng 2/2018, chị D có đơn gửi tòa án yêu cầu chia di sản thừa kế của bố.
Qua điều tra xác định: ngôi nhà của ông A tính đến thời điểm có yêu cầu chia di sản thừa kế trị giá 300 triệu đồng, ông A và bà T tạo lập được khối tài sản chung trị giá 600 triệu đồng.
Tranh chấp tài sản thừa kế giữa những người thừa kế
Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp giữa những người thừa kế về tài sản thừa kế.
Về khái niệm di sản có thể được hiểu như sau: di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết được chuyển dịch cho người thừa kế hợp pháp của người đó sau khi đã thanh toán toàn bộ nghĩa vụ tài sản từ di sản của người chết để lại dối người khác
Theo quy định tại điều 612 Bộ luật dân sự 2015 như sau: “Di sản thừa kế gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
Thừa kế di sản thừa kế là quyền lợi hợp pháp của người thừa kế (thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp việc phân chia di sản nảy sinh mâu thuẫn giữa những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc phân chia di sản dẫn đến tranh chấp.
Giải quyết tranh chấp phân chia di sản thừa kế là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền vận dụng các quy định của pháp luật nhằm giải quyết các bất đồng mâu thuẫn của hai hay nhiều bên trong mối quan hệ thừa kế. Để bảo về tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, gớp phần vào việc ổn định trật tự xã hội.
Tranh chấp về thừa kế thường gồm các dạng tranh chấp về hàng thừa kế, tranh chấp di chúc thừa kế, tranh chấp về di sản thừa kế, tranh chấp buộc người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, tranh chấp về chia di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, tranh chấp xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác… Trong tình huống nêu trên, tranh chấp được gọi là tranh chấp về chia di sản thừa kế giữa những người thừa kế. Cụ thể là tranh chấp di sản thừa kế giữa anh C, chị D và bà B về di sản thừa kế mà ông A để lại.
Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại cho những người còn sống. Theo quy định tại Điều 612 Bộ Luật dân sự: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Di sản thừa kế có thể là hiện vật, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản thuộc sở hữu của người để lại di sản.
Việc xác định di sản thừa kế mà người chết để lại căn cứ vào giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp đối với khối tài sản đó. Đối với trường hợp di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu chung thì việc xác định tài sản chung của người để lại di sản có thể dựa trên những thỏa thuận đã có từ trước hoặc căn cứ vào văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Theo quy định của pháp luật thì di sản bao gồm:
• Tài sản riêng của người đã chết, đây là tài sản người đó lập ra bằng thu nhập hợp pháp của mình lúc còn sống.
• Tài sản chung của người chết trong khối tài sản chung với người khác như: phần tài sản chung tạo lập được, phần tài sản chung trong kinh doanh, làm ăn, đầu tư….
Về di sản thừa kế mà ông A để lại gồm những tài sản như sau:
• Thứ nhất là 80 triệu đồng tiền mặt ông đang cất giữ
• Thứ hai 1/2 số tài sản chung mà ông A và bà T tạo dựng được.
• Ngôi nhà do ông A tạo dựng được trị giá 300 triệu đồng.
Tuy nhiên theo di chúc thì ông A quyết định riêng ngôi nhà trị giá 300 triệu đồng ông để lại cho bà T dùng làm nơi thờ cúng mà không chia thừa kế.
Như vậy di sản thừa kế để đem vào chia thừa kế của ông A là:
• triệu đồng + 600/2 triệu đồng = 380 triệu đồng.
Tại Điều 613 BLDS 2015 quy định về người thừa kế như sau: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế..” Trong tình huống nêu trên thì anh C, chị D, bà T và anh E và chị F là những người thừa kế hợp pháp.
Do ông A chết có để lại di chúc nên di sản mà ông A để lại sẽ được chia theo cả di chúc và pháp luật.
Về phần di sản được chia theo di chúc
Trong trường hợp người chết để lại di chúc, nếu di chúc đó hợp pháp thì chia tài sản theo di chúc có hiệu lục pháp luật. Sau khi thanh toán mọi nghĩa vụ của người để lại di chúc, số di sản còn lại sẽ được phân chia theo di chúc đã quy định.
Tại Điều 624 BLDS 2015 có quy định về di chúc như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Anh C được ông A để lại 1/2 di sản thừa kế trong tổng số tài sản mà ông A để lại;
Anh C được hưởng = 300 triệu đồng : 2 = 150 triệu đồng.
Bà T được hưởng ngôi nhà vì trong di chúc nói rõ ngôi nhà ông A để lại cho bà T làm nơi thờ cúng sau này.
Pháp luật Viên Nam tôn trọng ý chí của người để lại di sản nên nếu họ có để lại di chúc hợp pháp thì di sản sẽ được phân chia theo đúng ý trí mà người để lại di chúc đã xác định trong di chúc.
Về phần di sản được chia theo pháp luật
Trong trường hợp di sản không định đoạn bằng di chúc , hoặc có di chúc mà di chúc vô hiệu thì phần di sản sẽ được phân chia cho nhũng người thừa kế theo pháp luật. Trường hợp này di sản sẽ được chia đều cho những người thừa kế, nếu không có thỏa thuận gì khác.
Phân chia di sản theo pháp luật là phân chia cho những người thừa kế trong hàng thừa kế theo pháp luật được hưởng phần di sản ngang nhau không phân biệt giới tính, đổ tuổi,…. Quy định tại điều 660 BLDS năm 2015 như sau:
“Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
2. a) Không có di chúc;
3. b) Di chúc không hợp pháp;
4. c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
5. d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
6. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
7. a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
8. b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
9. c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
2. a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
3. b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
4. c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
5. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
6. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Như vậy, tài sản còn lại của ông T để lại để chia theo pháp luật là: 150 triệu đồng. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật bao gồm: Anh C, chị D, bà T, anh E và chị H. Tuy nhiên anh C đã được hưởng di sản thừa kế theo di chúc nên anh C sẽ không được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật nữa. Và sẽ chỉ còn lại 4 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và số di sản mà mỗi người sẽ được hưởng như sau:
D=T=E=H= 150 triệu : 4= 37,5 triệu đồng.
Về việc tranh chấp về ngôi nhà của anh C và bà T theo quy định của pháp luật ta thấy:
Trong di chúc của ông A có ghi rõ là về phần ngôi nhà để lại cho bà T để phục vụ cho việc thờ cúng và nuôi hai cháu E và cháu H. Vậy hành vi của anh C yêu cầu bà T sang tên nhà cho mình dẫn đến tình trạng xảy ra xô xát thương tích cho bà T. Hành vi của anh C là hoàn toàn trái pháp luật. Nếu bà T có yêu cầu anh C phải bồi thường về hành vi xô xát gây thương tích, thì trong trường hợp này anh C hoàn toàn phải chịu mức bồi thường mà bà T đưa ra.
Đến tháng 2/2018, chị D có đơn gửi tòa án yêu cầu chia di sản thừa kế của bố. Việc chị D có đơn yêu cầu tòa án chia di sản thừa kế của bố là hoàn toàn có căn cứ pháp luật. Chị D là con ruột của ông A và cũng là người trong hàng hưởng di chúc hợp pháp nên Chị D sẽ được nhận số tiền là 37,5 triệu đồng trong khối di sản thừa kế mà ông A để lại.
Nêu ý kiến về quy định pháp luật hiện hành và kiến nghị hoàn thiện nếu có thông qua việc xây dựng và giải quyết tình huống
Những bất cập trong giải quyết tranh chấp về phân chia di sản
Qua quá trình xây dựng và giải quyết tình huống, em nhận thấy việc pháp luật quy định về chế định thừa kế và việc giải quyết chia di sản thừa kế vẫn còn có những bất cập sau:
Việc quy định về người thừa kế
Pháp luật dân sự ghi nhận quyền thừa kế của cá nhân, tổ chức. Điều 613 BLDS quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.”
Tất nhiên, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân, còn người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
Hiểu như thế nào về “người còn sống vào thời điểm mở thừa kế”, đặc biệt trong trường hợp những người thừa kế chết mà không xác định được ai chết trước, ai chết sau.
Thực tế chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau chết cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn, vụ việc tranh chấp thừa kế một thời gian dài sau đó mới phát sinh, do vậy việc xác minh thời điểm chết của từng người rất khó khăn, tạo phức tạp trong quá trình giải quyết vụ án (có lẽ, trong những trường hợp này, căn cứ pháp lý duy nhất có thể tin cậy được là giấy chứng tử, nhưng trong nhiều trường hợp giấy chứng tử lại không ghi cụ thể giờ, phút chết của cá nhân).
Về thời hiệu khởi kiện.
Điều 623 BLDS 2015 quy định về thời hiệu yêu cầu chia thừa kế “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Trong thực tiễn, khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, có nhiều cách hiểu khác nhau về vấn đề này, nếu không có hướng dẫn cụ thể sẽ tạo tình trạng áp dụng không thống nhất khi xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế, đặc biệt là thừa kế quyền sử dụng đất.
Ngoài ra BLDS 2015 còn quy định: “thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu”. Do đó, quy định này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, phải hiểu thời điểm mở thừa kế là thời điểm được xác định bằng giờ người để lại di sản chết, tại thời điểm đó xác định người thừa kế, di sản của người chết… để bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế.
Về di sản thừa kế.
Theo quy định tại Điều 612 BLDS: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản riêng của người chết trong tài sản chung với người khác. Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế.
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Như vậy, quyền tài sản nằm trong khái niệm về tài sản. Cho nên cần phải hiểu khái niệm di sản còn bao gồm cả các quyền về tài sản như: quyền đòi bồi thường thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị… Một thực tế hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về di sản dẫn đến tình trạng các vụ án thực tế hiện nay phải xét xử lại do xác định di sản không chính xác và đầy đủ.
Giải pháp vấn đề giải quyết tranh chấp về phân chia tài sản thừa kế
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của cơ quan tư pháp trong đó có hoạt động áp dụng pháp luật trong lĩnh vựa phân chia tài sản. Nâng cao bản lính chính trị, và nâng cao kinh nghiệm của đội ngũ Thẩm phán và đội ngũ luật sư cũng như là công tố viên.
Nâng cao chất lượng trong việc giải quyết các tranh chấp di sản thừa kế tại các cơ sở có thẩm quyền (Tòa án nhân dân ) phải gắn liền với việc thực hiện đồng bộ các yêu cầu, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Đổi mới công tác xét xử của Tòa án nhân dân ác cấp theo hướng dân chủ, tranh luận tại phiên tòa, thực hiện đầy đủ các nguyên tắc tố tụng.
Đi đôi với việc giải quyết tranh chấp di sản thừa kế tại tòa án phải gắn liền với nghĩa vụ phổ biến tuyên truyền , giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn!.