Luật sư tư vấn quyền thừa kế nhà đất khi không có Sổ đỏ

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Thừa Kế

1. Đất làm nhà thờ họ có được chia thừa kế

Câu hỏi:

Tôi đang quản lý sử dụng 1700m2 đất. Nguồn gốc đất là của bố mẹ chồng tôi được ông nội chia cho. Trên mảnh đất này xưa kia đã từng có nhà thờ của họ Nguyễn - một dòng họ có từ hơn 300 năm nay, nhưng các ngôi nhà thờ họ đã bị chiến tranh tàn phá và đã bị dỡ bỏ từ lâu chỉ có ngôi nhà ở do mẹ chồng tôi xây lại vào năm 1983 trên nền ngôi nhà ở cũ của bố mẹ chồng. Cuối năm 1983 khi mẹ chồng tôi mất thì giao lại cho tôi tiếp tục quản lý trông nom nhà cửa. Trong bản đồ địa chính xã năm 1986 và 1993 tôi là người đứng ra kê khai diện tích đất này. Hiện nay trên diện tích đất này ngoài ngôi nhà của mẹ chồng xây năm 1983 còn có ngôi nhà tôi xây cho các con tôi ở, sân gạch và cây cối. Năm 2001 tôi đã đồng ý cho một số người trong dòng họ Nguyễn góp tiền để sửa sang lại ngôi nhà (25 triệu đồng) để dùng làm nơi thờ cúng dòng họ và cho những người thuộc dòng họ Nguyễn đến thắp hương vào ngày cúng giỗ. Nhưng lợi dụng việc này mà năm 2003 có một người cháu của tôi đã đứng lên thu thập chữ ký của một số trưởng chi họ khởi kiện đòi nhà thờ họ và đòi chia thừa kế đất đai của tổ tiên. Vậy như thế nào thì coi là đất của dòng họ? Nếu là đất thờ cúng của dòng họ thì có thể yêu cầu chia thừa kế hay không?

Luật sư Gia Đình trả lời:

Căn cứ khoản 1 phần IV Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước quy định: “Để thực hiện thống nhất quản lý ruộng đất, tất cả các tổ chức và cá nhân sử dụng đất đều phải khai báo chính xác và đăng ký các loại ruộng đất mình sử dụng vào sổ địa chính của Nhà nước. Uỷ ban nhân dân xã phải kiểm tra việc khai báo này”. Theo dữ kiện bà nêu thì diện tích đất này có nguồn gốc từ ông nội của chồng chứ không phải là đất của dòng họ Nguyễn. Sau khi mẹ chồng mất năm 1983 thì do bà quản lý sử dụng. Trong bản đồ địa chính của xã năm 1986 thể hiện bà là người đứng ra kê khai đăng ký việc sử dụng đất. Trong bản đồ địa chính năm 1993 thì bà cũng đứng ra kê khai và đóng tiền sử dụng đất. Do đó bà được xác định là người sử dụng đất chứ không phải dòng họ Nguyễn và dòng họ Nguyễn không uỷ quyền cho bà thay mặt dòng họ kê khai.

Theo dữ kiện bà nêu thì trước kia trên diện tích đất này đã từng có nhà thờ họ Nguyễn nhưng đã không còn hiện nay chỉ có ngôi nhà ở do mẹ chồng xây năm 1983, sau khi mẹ chồng chết thì giao lại cho bà tiếp tục quản lý nên tài sản này thuộc quyền sử dụng của bà. Điều 199 Bộ luật dân sự quy định: “Trong trường hợp chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình, thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình, nhưng không được gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.

Việc bà dành hai gian của ngôi nhà bà đang ở làm nơi thờ cúng dòng họ Nguyễn là thuộc quyền của chủ sở hữu trong việc sử dụng tài sản của mình.

Căn cứ khoản 1 Điều 234 Bộ luật dân sự quy định: “Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ... đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, được tặng, quyên góp, cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng”. Theo dữ kiện của bà nêu thì không có căn cứ xác định ngôi nhà mà bà hiện nay đang sử dụng hai gian làm nhà thờ dòng họ Nguyễn mà của mẹ chồng xây dựng từ năm 1983 trên diện tích đất được ông nội của chồng chia cho. Năm 2001 bà có đồng ý cho một số người trong họ Nguyễn đóng góp tiền (với số tiền 25 triệu đồng) để tu sửa nhằm mục đích cho họ đến đây cúng giỗ chứ không phải là bà tặng cho ngôi nhà này làm nhà thờ họ Nguyễn. Việc đóng góp tiền tu sửa ngôi nhà của một số người trong họ được coi là đồng sở hữu chung theo phần theo quy định tại khoản 1 Điều 231 Bộ luật dân sự quy định: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”. Căn cứ khoản 2 Điều này quy định: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Như vậy việc đóng góp để tu sửa ngôi nhà mà bà dành để thờ cúng họ Nguyễn không phải là điều kiện để xác lập quyền sở hữu của dòng họ đối với ngôi nhà này. Những người đóng góp chỉ có quyền sở hữu đối với phần tài sản trị giá 25 triệu đồng mà mình đã đóng góp. Nếu có tranh chấp và có yêu cầu chia tài sản chung theo phần thì sẽ được trả bằng tiền đã đóng góp.

Giả sử diện tích đất bà đang sử dụng là của dòng họ Nguyễn hoặc ngôi nhà thờ là của dòng họ Nguyễn thì căn cứ khoản 2 Điều 234 Bộ luật dân sự quy định: “Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả thuận hoặc theo tập quán, vì lợi ích của cộng đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Nên tài sản này thuộc quyền định đoạt và sử dụng của tất cả các thành viên trong dòng họ. Vì vậy người cháu được một số người trong dòng họ uỷ quyền khởi kiện đòi nhà đất của dòng họ là chưa đầy đủ tư cách đại diện của dòng họ.

Căn cứ khoản 3 Điều 234 Bộ luật dân sự quy định: “Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia”. Do đó giả sử diện tích đất và nhà thờ của dòng họ thì cũng không thể chia thừa kế được.

Do vậy, trong vụ kiện này người cháu phải chứng minh tư cách đại diện dòng họ của mình trong việc kiện đòi nhà thờ họ (nếu là nhà thờ của dòng họ) và phải chứng minh diện tích nhà đất mà bà đang sử dụng là tài sản của dòng họ theo quy định tại khoản 1 Điều 234 Bộ luật dân sự.

2. Quyền thừa kế nhà đất khi không có Sổ đỏ

Điều 609 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.

Theo đó, di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

Lưu ý: Di chúc miệng chỉ được lập trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản; sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

Theo những quy định trên, người sử dụng đất có quyền để lại quyền sử dụng đất của mình theo di chúc, theo pháp luật. Tuy nhiên cần lưu ý, không phải trường hợp nào cũng có quyền lập di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc có chứng thực (vì Luật Đất đai có quy định riêng).

1. Hướng dẫn lập di chúc khi không có Giấy chứng nhận

Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định:

“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

b) Đất không có tranh chấp;

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

d) Trong thời hạn sử dụng đất”.

Ngoài ra, tại điểm c khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 còn quy định:

“c) Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự”.

Như vậy, nếu bạn đọc chỉ biết các quy định trên thì sẽ hiểu “muốn thực hiện quyền thừa kế quyền sử dụng đất thì thửa đất đó phải có Giấy chứng nhận”. Tuy nhiên, Điều 628 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hình thức di chúc bằng văn bản bao gồm 04 loại:

- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng.

- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng.

- Di chúc bằng văn bản có công chứng.

- Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

Tóm lại, chỉ khi lập di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc có chứng thực mới phải có Giấy chứng nhận (Sổ đỏ, Sổ hồng). Hay nói cách khác, nếu không có Giấy chứng nhận thì sẽ bị từ chối yêu cầu công chứng hoặc chứng thực,trừ 2 trường hợp; người sử dụng đất vẫn có quyền lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng hoặc di chúc bằng văn bản có người làm chứng, cụ thể:

* Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

Căn cứ Điều 633 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc bằng văn bản không có người làm chứng được thực hiện như sau:

- Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.

- Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể:

+ Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:

. Ngày, tháng, năm lập di chúc.

. Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc.

. Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.

. Di sản để lại và nơi có di sản.

Ngoài các nội dung trên, di chúc có thể có các nội dung khác.

+ Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.

* Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

Căn cứ Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc bằng văn bản có người làm chứng được thực hiện như sau:

Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 (như di chúc không có người làm chứng) và Điều 632 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể:

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau:

- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.

- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

2. Quyền thừa kế khi đất không có Giấy chứng nhận

Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định:

“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

b) Đất không có tranh chấp;

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

d) Trong thời hạn sử dụng đất”.

Như vậy, điều kiện có Giấy chứng nhận chỉ áp dụng khi người sử dụng đất thực hiện quyền thừa kế. Hay nói cách khác, quy định trên chỉ áp dụng khi người sử dụng đất còn sống, thể hiện quyền của mình bằng di chúc; khi người đó chết thì không được xem là thực hiện quyền thừa kế vì không thể hiện ý chí của mình trước khi chết.

Theo Điều 649 Bộ luật Dân sự 2015, thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

Khi chia thừa kế phải xác định đối tượng được hưởng di sản (xác định người thừa kế) bằng cách xác định người thuộc diện và hàng thừa kế.

* Diện thừa kế

Diện thừa kế là người có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng (cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại) với người chết.

Theo đó, không phải ai thuộc diện thừa kế cũng được hưởng di sản vì phụ thuộc vào hàng thừa kế.

* Hàng thừa kế

Căn cứ khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.

- Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

Kết luận: Trên đây là hướng dẫn thực hiện quyền thừa kế nhà đất khi không có Sổ đỏ. Theo đó, khi đất không có Sổ đỏ, Sổ hồng thì người sử dụng đất được thực hiện quyền thừa kế của mình bằng cách: Lập di chúc không có người làm chứng hoặc có người làm chứng. Nếu không thực hiện quyền của mình thì khi chết vẫn chia thừa kế theo pháp luật.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng: Nhà đất không có Sổ đỏ, Sổ hồng thì khi chia thừa kế có thể sẽ gặp một số vướng mắc tùy vào từng trường hợp cụ thể.

VTV1

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn!.

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006