Luật sư bào chữa tố cáo lừa đảo tiền xin việc
1. Dùng giấy tờ giả lừa đảo, phạm tội gì?
Khi xử lý, các cơ quan tố tụng thiếu thống nhất về tội danh của người vi phạm: Có ý kiến cho rằng chỉ có thể xử lý hình sự người vi phạm về một tội là lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng phải xử lý về cả hai tội… Theo Điều 139 BLHS, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Thủ đoạn gian dối được coi là dùng công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm của người phạm tội. Tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện khác nhau để lừa được người khác. Nếu phương tiện, công cụ mà người phạm tội sử dụng cấu thành một tội phạm cụ thể thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội. Trường hợp làm giả giấy tờ và nếu hành vi này cấu thành tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Trường hợp này cũng giống trường hợp sử dụng súng quân dụng để giết người thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Về lý luận, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội cấu thành vật chất nhưng không vì thế mà cho rằng người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì không cấu thành tội này. Cũng như đối với các tội phạm cấu thành vật chất khác được thực hiện do cố ý, hậu quả chưa xảy ra là ngoài ý muốn của người phạm tội. Nếu cho rằng đối với tội cấu thành vật chất, hậu quả chưa xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm, có lẽ BLHS cũng không cần quy định trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nữa. Nếu người phạm tội mới chuẩn bị giấy tờ giả (công cụ, phương tiện phạm tội) chưa giao dịch với người bị hại thì trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản này mới ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 139 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 139 BLHS thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu người phạm tội đã chuẩn bị giấy tờ giả (công cụ, phương tiện phạm tội) đã giao dịch với người bị hại nhưng người bị hại phát hiện, không giao tài sản thì trường hợp này là phạm tội chưa đạt. Người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phân biệt thuộc khoản nào của Điều 139 BLHS. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, tòa sẽ áp dụng thêm Điều 18 BLHS (phạm tội chưa đạt). Trở lại vụ việc báo nêu, H. mới đến văn phòng công chứng để công chứng giấy tờ giả thì bị phát hiện; H. chưa đưa giấy tờ giả cho ông N. nên với tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức, trường hợp của H. là phạm tội chưa đạt (chưa công chứng được). Còn với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi của H. ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. H. có ý định chiếm đoạt 200 triệu đồng, thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng) nên H. bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
2. Tố cáo lừa đảo tiền xin việc được không?
Thưa luật sư! Luật sư tư vấn giúp tôi trường hợp cụ thể như sau : tôi tên T, sinh năm 1985 tôi và chồng quê Quảng Ngãi được mẹ xây nhà để lập nghiệp ở Đà Nẵng. Tôi và N quen nhau khi học cùng lớp liên thông đại học kế toán tại Đà Nẵng. N nói đang làm ở công an thành phố. Tôi ngỏ lời muốn nhờ N xin việc, lúc đầu chỉ có ý định xin chỗ nào làm giờ hành chính để có thời gian chăm con nhưng cứ như đang bị cuốn vào vòng xoáy. N nói xin vào Cục quản trị T26, không cần tiền (tôi nghĩ N thật thà nên tôi nghĩ mình nên biết điều và bảo: mình nên bỏ bì thư để bồi dưỡng họ uống nước thì bỏ bao nhiêu, N bảo tùy T nên tôi đã bỏ bì 5 triệu. N bảo phải có chứng chỉ tin và anh văn mới có quyết định. Tôi đã cố gắng đăng ký và thi vì N nói bằng giả không được vì có máy soi. Khi tôi thi thì N sinh con, trong thời gian ấy tôi cũng nhắn tin hối thì N nói sắp có quyết định, và N nói đưa thêm 5 triệu để chiêu đãi họ ăn nhậu. Rồi tôi vẫn thấy lâu nên hối thì N bảo do N ở cữ không đi được nên tốc độ hơi lâu. Rồi khi N hết ở cữ đã điện thoại gặp tôi thì tôi hỏi bỏ thêm để họ làm nhanh vậy nên đưa thêm bao nhiêu, N bảo tùy nên tôi đã đưa 3 triệu vì trong ví không đem theo nhiều.
Rồi hôm sau N điện thoại nói bỏ thêm 2 triệu vì 3 triệu hơi ít và tôi đồng ý. Cứ hẹn với tôi là sắp có quyết định nên em chờ. Sau đó N điện thoại gặp tôi và nói chú sếp ở cơ quan điện thoại nói tìm cho chú 1 người vì cấp trên đưa 1 chỉ tiêu vào cơ quan nhưng chưa có, nói tôi có muốn không? Làm trong công an thì có tương lai hơn với giá 100 triệu đưa trước 50 triệu còn 50 triệu thì khi làm tháng lương đầu thì đưa nốt. Và N đã thuyết phục được chồng tôi, nói rằng nếu không được sẽ trả lại tiền. Và tôi đã ra ngân hàng rút 50 triệu đưa cho N tại ngân hàng. Sau đó N điện thoại bảo có vị trí ở quận cẩm lệ gần nhà đầu tháng 2/2016 làm , nếu muốn nhanh thì phải đóng thêm 20 triệu cho chắc chắn. Thế là vợ chồng em chạy khắp nơi cũng mượn được 20 triệu để đưa. Nhưng trong lúc chờ nhập khẩu thì tôi phát hiện N cũng đang chạy việc cho 1 đứa em con cô nhưng vẫn chưa được, lúc ấy tôi thấy lo nhưng nghĩ nếu không được thì lấy tiền lại. Do trục trặc nhập khẩu nên tôi quyết định ngưng không làm và N nói qua tết tây sẽ lấy tiền về, và hẹn ngày đưa.
Nhưng không ngờ đến ngày hẹn N trốn và tắt máy. Trường hợp của tôi không có giấy nợ thì có tố cáo được không hay phải làm sao xin luật sư tư vấn cho tôi?
Luật sư Gia Đinh trả lời:
Theo thông tin bạn cung cấp thì N nhận tiền xin việc từ bạn, nhưng sau khi nhận tiền thì N không giúp được, đến ngày hẹn trả N không trả, trốn và tắt máy. Với hành vi này của N, tùy thuộc vào các tình tiết trên thực tế mà có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay một tội danh khác, hành vi của bạn chưa đúng chuẩn mực và hành vi của N cũng sai. Cụ thể chúng tôi đưa ra một số nhận định sau để bạn có thể tham khảo:
Tội đưa hối lộ?
Tội đưa hối lộ được quy định tại Điều 364 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017:
Điều 364. Tội đưa hối lộ
1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ...
Như vậy, từ quy định trên có thể hiểu đưa hối lộ là hành vi dùng tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất trực tiếp hoặc qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn, hoặc người khác hoặc tổ chức khác để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Các yếu tố cấu thành tội đưa hối lộ bao gồm:
Thứ nhất, khách thể : các dấu hiệu thuộc khách thể của tội đưa hối lộ là xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức.
Thứ hai, mặt khách quan: các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội đưa hối lộ: là hành vi đưa bất kỳ lợi ích nào cho người có chức vụ quyền hạn. Hành vi ở đây được thể hiện dưới hình thức: đã đưa hoặc sẽ đưa trực tiếp hoặc qua trung gian. Việc quy định hành vi hối lộ bao gồm cả hành vi "đưa" hoặc “sẽ đưa” có thể sẽ gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố tội phạm liên quan đến xác định chứng cứ và thời điểm hoàn thành tội phạm này.
Thứ ba, mặt chủ quan: tội phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.
– Trường hợp người đưa hối lộ đưa nhầm cho người không có chức vụ quyền hạn thì vẫn cấu thành tội đưa hối lộ, trường hợp người nhận biết đưa nhầm mình là người có chức vụ quyền hạn mà vẫn nhận của hối lộ thì người nhận sẽ bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
– Tội đưa hối lộ có động cơ vụ lợi. Mục đích là để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặ theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Tuy nhiên, động cơ không phải là dấu hiệu cấu thành bắt buộc của loại tội phạm này.
Thứ tư, chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Tình tiết tăng nặng:
+ Có tổ chức;
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
+ Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên.
+/ chủ thể: Các dấu hiệu về chủ thể của tội đưa hối lộ Bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
Tội nhận hối lộ?
- Tội nhận hối lộ được quy định tại Điều 354 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017:
Điều 354. Tội nhận hối lộ
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ,..
Từ quy định trên, tội nhận hối lộ được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận bất kì lợi ích nào do Bộ luật hình sự quy định dưới bất kì hình thức nào cho mình hoặc cho người, tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Các yếu tố cấu thành tội nhận hối lộ
Thứ nhất, mặt khách quan: Mặt khách quan của tội nhận hối lộ có các dấu hiệu sau đây:
Về hành vi: Có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Được hiểu là sử dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để thực hiện tội phạm. Có hành vi đã nhận hoặc sẽ nhận (nghĩa là tuy nhận nhưng có việc hứa hẹn, thỏa thuận trước việc nhận), tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất, phi vật chất khác dưới bất kì hình thức nào (như tiền, vàng, xe gắn máy, quà biếu…). Việc nhận tiền, tài sản… có thể được thực hiện trực tiếp giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ nhưng cũng có thể qua trung gian (như qua người môi giới, qua bưu điện…). Việc nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích đó có thể là cho chính người đó nhưng cũng có thể cho người khác hoặc tổ chức khác.
Lưu ý: Các hành vi nêu trên phải gắn liền với nhau và với điều kiện là:
– Để làm một việc (hành động) vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ (ví dụ: Cán bộ phòng quản lí đô thị nhận hối lộ rồi tiến hành cấp giấy phép xây dựng nhanh hơn…).
– Hoặc để không làm một việc (không hành động) vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ (ví dụ: Cán bộ hải quan nhận hối lộ rồi bỏ qua không lập thủ tục xử phạt người vi phạm hành chính về hải quan…).
– Đối với trường hợp người có chức vụ, quyền hạn chủ động đòi hối lộ, thì tội phạm được coi là hoàn thành tính từ thời điểm người phạm tội tỏ rõ thái độ đòi hối lộ và người đưa hối lộ chấp nhận sự đòi hỏi đó. Trường hợp một trong hai bên tỏ thái độ hoặc đưa ra đề nghị đưa hối lộ nhưng một trong hai bên không chấp nhận (từ chối) thì không cấu thành tội nhận hối lộ vì hai bên vẫn chưa có sự thỏa thuận xong về việc đưa và nhận hối lộ.
Thứ hai, chủ thể: chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, khách thể: Hành vi phạm tội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức khinh tế của nhà nước hoặc tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Thứ tư, mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý và với động cơ vụ lợi.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được cấu thành như thế nào?
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017:
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây...
Các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm:
Thứ nhất, mặt khách quan: của tội này có các dấu hiệu sau:
Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản
- Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động … (ví dụ: kẻ phạm tội nói là mượn xe đi chợ nhưng sau khi lấy được xe đem bán lấy tiền tiêu xài không trả xe cho chủ sở hữu) và bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.
- Chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối.
Như vậy, có thể phân biệt với những trường hợp dùng thủ đoạn gian dối khác, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo đếm gian dối nhằm ăn gian, bớt của khách hàng hoặc để bán hàng giả để thu lợi bất chính thì không cấu thành tội này mà cấu thành tội lừa dối khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.
Thứ hai, khách thể: Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
Thứ ba, mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
Thứ tư, chủ thể: chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Vì vậy, do bạn chưa nói rõ cụ thể hành vi và mục đích của các bên, nên bạn có thể dựa trên các yếu tố cấu thành của các tội phạm trên đây, từ đó đưa ra cách giải quyết cho mình.
Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...
Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.
Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.
Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.
Trân trọng cảm ơn!.