Luật Sư Bào Chữa Tội Cố Ý Làm Trái Các Quy Định Nhà Nước Gây Hậu Qủa Nghiêm Trọng

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN KÊU OAN

(v/v: bị cáo Nguyễn Tài bị truy tố về tội cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại khoản 3 Điều 165 BLHS, kêu oan yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao Tại Đà Nẵng hủy bản án sơ thẩm số 19/2016/HSST ngày 14/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên để điều tra, xét xử lại từ đầu theo đúng tội danh, đúng quy định pháp luật)

Kính gửi: ÔNG NGUYỄN XUÂN PHÚC- THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG – BÍ THƯ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

CHỦ TỊCH NƯỚC TRẦN ĐẠI QUANG

BÀ CHỦ TỊCH QUỐC HỘI – NGUYỄN THỊ KIM NGÂN

ÔNG PHÓ THỦ TƯỚNG THƯỜNG TRỰC TRƯƠNG HÒA BÌNH

BAN DÂN NGUYỆN – ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

ÔNG TÔ LÂM – BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN

ÔNG CỤC TRƯỞNG CỤC CẢNH SÁT HÌNH SỰ C45 HỒ SĨ TIẾN

ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH PHÚ YÊN

Đồng kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

Người kêu oan: Nguyễn Tài, sinh năm: 1963

Địa chỉ: Xã Hòa Xuân Tây, Đông Hòa, Phú Yên.

Tôi trình bày nội dung kêu oan như sau:

Nguyên tôi bị Tòa án cấp sơ thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử về tội: tội cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại khoản 3 Điều 165 BLHS theo bản án số 19/2016/HSST ngày 14/9/2016.

Trong việc triển khai dự án nhà máy lọc dầu  tôi với tư cách là chủ tịch UBND huyện Đông Hòa nhưng trong quá trình thực hiện dự án tôi không tham gia trực tiếp chỉ đạo là trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng như bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên. Tôi cũng không được bất kỳ lợi ích gì về vụ án trên, không tư lợi cá nhân, tham nhũng. Không có bất kỳ văn bản, người dân nào khai thôi được lợi ích hay chia lợi ích gì qua dự án trên. Tôi xin trình bày những vấn đề chính tôi không phạm tội cố ý làm trái các quy định của nhà nước vì những căn cứ sau:

1/. Trong quyết định số  806/QĐ-UBND trình ông Sương ký hổ trợ giai đoạn 1 là 238 trường hợp. Nhưng sau khi bồi thường, hỗ trợ xong 15 đợt lại vượt lên 254 trường hợp, với tổng số tiền là 96.065.964.632đ. Vậy việc tăng thêm 16  trường hợp trên do ai chỉ đạo? việc lập danh sách cá nhân, tổ chức có đất nằm trong vùng quy hoạch là do ban GPMB có trách nhiệm sao lại quy trách nhiệm cho tôi? Vậy việc tăng thêm số trường hợp đền bù do lỗi ai là người chịu trách nhiệm? Dẫn tới việc tăng thêm? Việc phát sinh thêm đó thì ban GPMB không báo cáo cho tôi, làm sao tôi biết trong khi tôi với tư cách chủ tịch chỉ đạo chung, sao uy kết tôi tổng số 254 trường hợp là hết sức vô lý và không có căn cứ. Vậy đồng chí Trưởng Ban đã chỉ đạo cho các phòng ban chuyên môn thực hiện quyết định nào và có đang làm theo sự chỉ đạo của tôi không, và thuộc cấp của tôi đã thực hiện QĐ nào, ở tại phiên tòa sơ thẩm tôi có trình bày điều này nhưng vị Công Tố Viên lơ đi va không trả lời cũng không tranh luận vấn đề này với tôi.

Tại thông báo 512/TB_UBND tôi có yêu cầu trung tâm PTQĐ lập phương án bồi thường, phòng Tài nguyên và môi trường Thẩm định phương án. Như vậy việc Tòa án xét xử buộc tôi chỉ đạo cho cấp dưới không thực hiện khâu thẩm định là sai và không có căn cứ ?

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng khi phương án bồi thường chưa hoàn chỉnh, thì do ông Tài với ông Kích chỉ đạo ông Thắng ký phương án đó, để ông Sương ký QĐ 806 là không có căn cứ? Bởi vì nguyên chủ tịch UBND lãnh đạo, khi có ý kiến kết luận, chỉ đạo phải thực hiện bằng văn bản? vì vậy việc Tòa án kết tội  tôi qua lời khai của ông Thắng với ông Sương là không có căn cứ? Cơ quan nhà nước làm việc phải có chỉ đạo qua văn bản, không thể bằng miệng như các ông Sương, thắng...khai khống vu oan cho tôi.

Ngày 2/7/2013 tôi yêu cầu ông Nhân sớm thẩm định trình phương án để UBND huyện duyệt; như vậy trách nhiệm thẩm định đã được giao cụ thể.

Ngày 26/3/2014 ông Sương ra thông báo số 116/TB-UBND, trong có nội dung yêu cầu kiểm tra, rà soát lại phương án bồi thường, nếu có sai sót thì tiến hành bổ sung đầy đủ cơ sở pháp lý vào như: đo đạc, xác định quy chủ…..trình phòng tài nguyên và môi trường thẩm định sớm để tham mưu UBND điều chỉnh QĐ 806 ( lưu ý thực hiện đúng quy định của pháp luât ); chủ trì phối hợp với cơ quan đơn vị có liên quan và UBND xã hòa tâ, đo đạc, quy chủ, xác định nguồn đất, niêm yết công khai, lập phương án bồi thường (…..). Như vậy, theo thông báo này chứng tỏ việc ông Sương đã nắm rõ sự chỉ đạo của ông Tài, là làm đúng quy định pháp luật. Hơn nữa việc tôi ra các thông báo điều chỉnh hoàn thiện QĐ 806 vào tháng 12 năm 2013 mà cho đến tháng 3 năm 2014 ông Sương mới ra thông báo trên, chứng tỏ rằng ban GPMB có thời gian để thực hiện việc thẩm định, niêm yết công khai… nhưng tổ thẩm định không thực hiện các bước trên. Đồng thời qua thông báo 116 cho thấy ông Sương đã chủ động thực hiện việc chỉ đạo ban GPMB tiến hành thực hiện các bước đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên không hiểu sao các thành viên trong tổ thẩm định không thực hiện các bước trên. Và qua đây, cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng tôi chỉ đạo ban GPMB bỏ qua bước theo quy định pháp luật là thiếu căn cứ, thiếu tính khách quan, không có căn cứ pháp lý để buộc tội tôi mà chỉ dựa vào lời khai khống của các bị cáo khác. Trong khi theo pháp luật hình sự là phải trọng chứng chứ không trọng cung.

Theo quy định tại điều 25 Nghị Định 69/2009/NĐ-CP quy định như sau:

Điều 25. Giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

đ) Đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã có đất bị thu hồi;

Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện hoặc Tổ chức phát triển quỹ đất được thuê doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ về bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Như vậy, trong vụ việc trên, ông Sương với tư cách là Trưởng ban dự án giải phóng mặt bằng phải chịu trách nhiệm khi đã được giao nhiệm vụ.

Bị cáo Kích đã ban hành quy trình trong công tác bồi thường hỗ trợ và tái định cư vào ngày 10/1/2013 gồm 10 điều, được sao gửi đến từng  CBCNV để biết và theo dõi thực hiện. trong đó có bị cáo thắng – chuyên nghành tài chính kế toán, còn Duy và Quang là cán bộ hợp đồng nhưng chuyên nghành đại học xây dựng biết rỏ công việc mình phải làm.

Ngày 14/8/2013 ông Huỳnh Ngọc Thắng có quyết định bổ nhiệm phó giám đốc trung tâm PTQĐ huyện. Ông Nguyễn Kích có tổ chức họp chi bộ, cơ quan công bố quyết định giao cho ông Thắng là phó giám đốc phụ trách  nhà máy lọc dầu Vũng Rô phần cảng trên cạn.

Tại biên bản họp cơ quan 8h00 ngày 22/8/2013 công bố quyết định phó giám đốc Huỳnh Ngọc Thắng và phân công lại nhiệm vụ; giao ông Thắng cùng với các anh em cơ quan hoàn thành nhiệm vị được giao và theo dõi anh em làm dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô

Tại biên bản họp chi bộ thường kỳ tháng 8/2013 ngày 30/8/2013 mục 5 kết luận: đồng chí Thắng chỉ đạo kiểm kê áp giá bồi thường công trình nhà máy lọc dầu Vũng Rô;

Thông báo số 45/TB-UBND  do phó chánh văn phòng Trần Thị Minh Tâm kí ngày 16/9/2013 thừa lệnh chủ tịch: giao đồng chí Huỳnh Ngọc Thắng – phó giám đốc TTPTQĐ tập trung hoàn chỉnh phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô;

Việc đền bù giải phóng mặt bằng là dựa theo quyết định 10 bao gồm 12 bước (có đính kèm) thực hiện tôi năm rõ, nhưng vì trong thời điểm đó trên địa bàn Huyện Đông Hòa nhiêu dự án lớn áp lực cao, UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt phải bàn giao mặt bằng sớm trước ngay 31/12/2013 cho nhà đầu tư, tình hình thực tế lúc đó quá cấp bách nên UBND Tỉnh mới cho UBND Huyện Đông Hòa thực hiện theo cơ chế đặc thù theo thông báo 457 của UBND Tỉnh ( đính kèm thông báo 457) cho phép vừa làm vừa hoàn tất hồ sơ thủ tục. Chính vì vậy mà phòng Tài Nguyên Môi Trường  đã ra quyết định 806 trình cho đồng chí Huỳnh Ngọc Sương phó chủ tịch trưởng ban giải phóng mặt bằng ký và quyết định 806 (đính kèm) đã được UBND Tỉnh cho phép thực hiện và xem nó như quyết định tạm tính và UBND Tỉnh có văn bản chỉ đạo phải hoàn chỉnh nó tại thông báo số 731 ( đính kèm). Cùng thời điểm đó có tồn tại một quyết định 945 cũng là do ông Sương ký. Trong thông báo 731 của UBND Tỉnh có chỉ đạo rất rõ là: “Yêu cầu UBND Huyện Đông Hòa kiểm tra rà soát để điều chỉnh quyết định 806 theo hướng tạm tính. Trên cơ sơ các quyết định chi tiết chi tra tiền sau khi hoàn thành sẽ phê duyệt lại”. Trên cơ sở các quyết định chi tiết chi trả tiền chứ không phải là dựa trên phương án chi tiết, vậy theo ý chí chỉ đạo của UBND Tỉnh tôi phải ra quyết định thu hồi 945 để hoàn chỉnh 806 là hoàn toàn đúng pháp luật, có căn cứ. Vì đây là dự án của tỉnh ủy quyền cho huyện, UBND huyện được sự ủy quyền của tỉnh phải làm theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh chứ sao lại kết tội cho tôi cố ý làm trái là hết sức thiếu căn cứ.

          Nhưng tại thời điểm đó tôi thấy quyết định 806 chưa hoàn chỉnh nên mới có những văn bản chỉ đạo như: 504, 511, 512 ( có đính kèm) nội dung những văn bản này nhằm hoàn chỉnh QĐ 806, vậy dựa trên quyết định 10, QĐ 806 thiếu bước nào thì trách nhiệm của đồng chí trưởng ban phải chỉ đạo sâu sát chặt chẽ thiếu bứơc nào thì chỉ đạo các phòng ban liên quan tiếp tục làm bứơc đó cho hoàn chỉnh, chứ chưa có văn bản nào tôi chỉ đạo thực hiện QĐ 806 cả,  tôi là Chủ Tịch có nhiệm vụ chỉ đạo chung còn cụ thể đã giao cho đồng chí trưởng ban giải quyết sao lại quy tôi cố ý làm trái được, nếu có chăng chỉ là thiếu trách nhiệm mà thôi.

Tôi xin khẳng định là tôi chưa có bất kỳ văn bản nào chỉ đạo Thắng phải ký phương án 806 chuyển phòng TN&MT huyện Đông Hòa.

Bản cáo trạng quy kết tôi không có chứng cứ, căn cứ  nhưng vẫn một mực khảng định tôi biết phương án chưa lập xong, chưa công khai, tổng hợp ý kiến của người bị thu hồi đất và chưa thẩm định nhưng thực hiện chỉ đạo yêu cầu ông Thắng phải ký phương án chuyển phòng TN&MT làm thủ tục trình UBND huyện phê duyệt tại quyết định 806).

Lời khai Thắng tại phiên Tòa cho rằng tôi chỉ đạo Thắng ký phương án 806 qua điện thoại mà không cung cấp được văn bản tôi chỉ đạo, chứng cứ tôi chỉ đạo?

Duy, Quang khai: bị cáo Thắng là người trực tiếp chỉ đạo họ và nghe Thắng nói làm theo chỉ đạo.

Bị cáo Thắng khai bị cáo làm theo chỉ đạo của tôi, nhưng không đưa ra chứng cứ gì. Đây là tội cố ý làm trái các quy định về bồi thường, hỗ trợ… do đó, việc thực hiện phải bằng văn bản chỉ đạo. trong khi không có văn bản chỉ đạo nào của tôi và tôi cũng chưa ký xác nhận nội dung, ký phê duyệt để đồng ý với việc thực hiện của bị cáo Thắng. Công việc này đã phân công cho Thắng thực hiện.

Thắng khai là không có căn cứ và những người khai tôi chỉ đạo bằng miệng là không có căn cứ đồng thời không đúng với quy định pháp  luật. Bởi tại điều 9 luật cán bộ công chức quy định về nghĩa vụ của công chức như sau:

“ Điều 9. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ:

Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.”

Như vậy, nếu các bị cáo còn lại cho rằng tôi chỉ đạo thì theo Luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Nhưng những cán bộ, bị cáo này không thực làm theo quy định trên. Vậy căn cứ nào để đổ lỗi và quy kết cho tôi. Rõ ràng việc kết tội tôi của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên là không có căn cứ pháp lý, áp dụng sai quy định pháp luật.

Vào ngày 30/9/2013, Tôi tổ chức cuộc họp, Kích có báo cáo sự thảo phương án bồi thường, nhưng nội dung báo cáo đúng thực tế, đúng quy định, nêu những khó khăn: 10 hộ đủ điều kiện, còn lại 80 hộ đang rà soát. Còn việc thực hiện thì UBND huyện đã có thông báo số 415/TB-UBND  do phó chánh văn phòng Trần Thị  Minh Tâm ký ngày 26/9/2013 giao đồng chí huỳnh Ngọc Thắng- phó giám đốc TTPTQĐ tập trung hoàn chỉnh phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô.

          Sau khi tổ thẩm định xong lập biên bản kết luận đủ điều kiện chi trả tiền trình bị cáo Sương trưởng ban ra quyết định chi tiết chi tra tiền

          Vậy mà ở phiên tòa sơ thẩm vị công tố viên cho rằng tôi chi đạo bỏ qua bức thẩm định nên mới dẫn đến cái sai, Tôi không có một văn bản nào chi đạo cho đồng chí Sương trưởngg ban cũng như các phòng ban liên quan bỏ qua bứơc thẩm định cả, vậy mà tại tòa 13 bị cáo đã làm sai lại khai bằng lời nói không là do tôi chi đạo bỏ qua bứơc thẩm định tôi hoàn toàn không hiểu lời khai đó dựa trên cơ sơ nào và văn bản nào, chứng cứ nào

          Một sự thật hết sư vô lý nữa là tổ thẩm định khai chỉ cộng ngang cộng dọc trên ban kê rồi ký vậy thử hỏi đồng chí trưởng ban thành lập tổ thẩm định gồm các phòng ban chuyên môn liên quan đến viêc giải phóng mặt bằng làm gi? Và cũng đã cho đi tập huân rồi vậy họ phải biết nhiệm vụ của họ phải làm chứ, lập tổ thẩm định cho đi tập huấn về là để thẩm định dự án chứ đâu phải để mấy anh cộng ngay cộng dọc rồi ký thì trách nhiệm của những bị cáo này đâu?

          Như vậy, 13 con ngươi này đã lam sai rồi cùng nhau tìm cách đổ tội cho người khác vì họ cùng chung một nhóm quyền lợi như nhau, nên họ mới trả lời thiếu trách nhiệm như thế, vì tất cả những người nay dù là hợp đồng hay biên chế họ đều là cán bộ nhà nước đã được qua đào tạo chuyên môn chứ UBND huyện đâu tuyển người vô học vào làm việc thẩm định dự án đâu, mà có ngươi bảo là thấy người khác ký nên ký theo, họ là cán bộ nhà nước và chắc chắc một điều trước và sau khí họ được tuyển dụng hơn ai hết họ nắm rõ luật viên chức vì đó là quyền lợi của họ.

Tôi thừa nhận ai làm sai người đó phải chiụ trách nhiệm trước hành vi của minh chứ không phải đổ tội cho người khác một cách vô căn cứ như vậy được, điều tôi muốn nói ơ đây là cái sai ơ đây là cai sai về mặt tác nghiệp xay ra ngoài ý muốn chứ  không phải  sai do chỉ đạo. Và tôi cho rằng phiên tòa sơ thâm xử chưa đúng người đưng tội, thật oan và vô lý, và việc bồi thường 25% trên tổng giá trị thiệt hại là hoàn toàn không có căn cứ, người làm trực tiếp ký quyết định 806, ký quyết định chi tiền không phải là tôi, và tôi chỉ là ngươi chi đạo chung cho dự án này với tư cách chủ tịch huyện thừa ủy quyền của UBND tình mà thôi mong tòa xem xét cho đúng người đúng tội. Tôi không chỉ đạo bằng bất kỳ văn bản nào đối với cấp dưới nên không thể phạm tội cố ý làm trái. Cố ý làm phải phải bằng văn bản theo như Luật công chức và quy định pháp luật liên quan.

2/.Việc kiểm kê, áp giá, lập phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư:

Thành lập tổ kiểm kê do ông Kích làm tổ trưởng trong lúc trung tâm PTQĐ phải triển khai theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh và nhà đầu tư công ty dầu khí Vũng Rô nhằm kiểm kê, áp giá, bồi thường phần nhà máy 404ha trước đẻ kịp thời khởi công. Đến khi triển khai phần cảnh 134ha, Kích giao cho Thắng).

Nội dung công việc này bị cáo Kích đã phân công nhiệm vụ cho phó giám đốc Huỳnh Ngọc Thắng và một số nhân viên khác trong cơ quan như Quang, Duy, Tùng… kiểm kê, áp giá, lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô ( biên bản họp cơ quan 8h00 ngày 22/8/2013 ).

Trong quá trình kiểm kê, áp giá lập phương án: Duy, Quang lập hồ sơ bồ thường, hỗ trợ. Thắng lập và ký phương án và tờ trình chuyển phòng TN&MT là thủ tục trình ông Sương ký phê duyệt. Ông Tài không tham gia thực hiện công việc này do nhiều dự án không có nhiều thời gian để kiểm tra hơn nữa dự án nhà máy lọc dầu Vũng Rô có cơ chế đặc thù của tỉnh cho phép vừa hoàn thiện hồ sở vừa làm, đây là làm theo chỉ đạo của tỉnh. Tôi không tham gia trực tiếp vào việc kiểm kê nên không thể nào biết rõ số lượng cây trên đất của nhà ông Kích, Cường là có đủ mật độ hay không. Chẳng lẽ làm chủ tịch huyện mà đi xuống kiểm kê cây hay sao? Việc này đã phân công từng bộ phận ai sai phải chịu trách nhiệm chứ không thể thuộc cấp làm sai lại quy cho tôi.

Việc thẩm định hổ trợ của các hộ Cường, Thuận, Thái, Nhân, Tui, Dựa, Phổ Nam , bồi thường cho ông Cường, bà Võ Thị Nương. Nguyễn Hữu Phí là do Duy, Quang , Thắng trực tiếp thực hiện, Tôi không tham gia, không có bất kỳ văn bản nào, chứng cứ nào thể hiện tôi chỉ đạo hỗ trợ, bồi thường cho các hộ này.

3/. Về việc tham dự các cuộc họp:

Các cuộc họp của tỉnh và huyện, VKS cho rằng tôi chỉ đạo là không đúng. Tôi  không phải là chủ trì cuộc họp, nọi dung cuộc họp không có ý kiến chỉ đạo của tôi, không có chữ ký, phê duyệt của tôi. Các cuộc họp liên quan đến công tác bồi thường nhà máy lọc dầu Vũng Rô phần cảng trên cạn 134ha, đều có bị cáo Thắng, Duy, Quang cùng tham dự để nghe về thực hiện nên tôi không có triển khai.

Thủ tục chi tiền bồi thường, hỗ trợ: sữ dụng quyết định 806 để bồi thường thiệt, hỗ trợ; trung tâm PTQĐ lập bảng kê khai chuyển sang tổ thẩm định. Chính ông Thắng soạn, lập và ký; tổ thẩm định kiểm tra, rà soát bản kê và lập biên bản đánh giá kết luận đủ điều kiện bồi thường, hỗ trợ. Chỉ đạo ông Sơn in lại bảng kê tổng hợp thanh toán chi trả bồi thường, hỗ trợ chuyển lại cho ông Thắng rồi chuyển sang phòng TN&MT xác nhận, trình UBND ký duyệt trên cùng bản kê và căn cứ bản kê được duyệt này ra quyết định chi trả tiền cho từng trường hợp bị thu hồi đất.

Trung tâm PTQĐ huyện đông hòa lập chứng từ chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ 15 đợt cho 254 trường hợp với số tiền 96.065.954.632đ.

Cho thấy các thủ tục và văn bản nêu trên không có bất kỳ chữ ký nào của tôi, không có sự chỉ đạo của tôi. Vậy căn cứ nào nói tôi cố ý làm trái, kết án tôi chỉ đạo?

          Việc chi bồi thường, hỗ trợ chi tiền cho từng hộ dân:  kế toán lập phiếu chi + biên lai chi trả tiền và do bị cáo Thắng ký toàn bộ. Biên bản chi tiền gồm xã, trung tâm PTQĐ, họ dân, kế toán, thũ quỹ ký..nhưng không có bất kỳ chữ ký của tôi. Sao có thể quy kết tôi là cố ý làm trái được?

          Tôi chưa bao giờ có văn bản chỉ đạo ai là người trực tiếp kiểm tra hồ sơ 15 đợt với 254 tổ chức hộ gia đình và cá nhân. Toàn bộ việc kiểm tra, áp sát giá, trình phương án thẩm định phê duyệt và chi tiền đến từng hộ dân là dô ông Huỳnh Ngọc Thắng, Quang và Duy thực hiện trên nhiệm vụ được phân công thepo quy định và theo các văn bản, cuộc họp. Không có việc tôi chỉ đạo thực hiện cồn tác bồi thường hỗ trợ phần 134ha

4/.Kết luận giám định xác định thiệt hại 9.274.234.559đ là không đúng quy định pháp luật, không đúng thực tế dẫn đến quy kết tôi tội cố ý làm trái quy định...gây thiệt hại lớn không có căn cứ.

          Bồi thường về đất và tài sản trên đất:

          Hộ Nguyễn Kích: do thiếu diện tích do công ty Tứ Thiên để là đất của xã Hòa Tâm quản lý.

          Bà võ thị Nương: xác định bồi thường sai quy định 158.343.110đ là chưa bảo đảm theo đúng pháp luật, cụ thể:

          Hộ bà Nương xây dựng nhà trên đất đủ điều kiện được bồi thường về đất, tuy không được bồi thường nhưng vẫn được hỗ trợ 50%-80% giá trị tài sản theo quy định pháp luật. Phần này thiệt hại chỉ còn cao nhất là 158.343.110 x 50% = 79.171.555đ ( Quy định tại khoản 3, điều 22, quyết định 10/2013/QĐ-UBND  ngày 23/4/2013 UBND tỉnh Phú Yên).

“3. Hỗ trợ nhà, công trình gắn liền với đất theo quy định tại điểm b và c khoản 2 Điều 20 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và khoản 2 Điều 10 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT được quy định cụ thể như sau:

- Trường hợp tại thời điểm xây dựng phù hợp với quy hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng khu dân cư thì được hỗ trợ 80% mức bồi thường quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 11 của Quy định này;

- Trường hợp tại thời điểm xây dựng không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng khu dân cư thì được hỗ trợ 50% mức bồi thường quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 11 của Quy định này.”

Như vậy, việc tôi hỗ trợ giải quyết cho hộ Bà Nương là đúng luật, không sai luật và tôi không được lợi ích gì từ vụ Bà Nương. Điều này chính bà Nương cũng đã thừa nhận như vậy nên không thể kết tội tôi cố ý làm trái được. Nếu việc này tôi có sai sót thì cũng là do chuyên môn tôi yếu mà bồi thường phần tiền vượt qua là : 79.171.555đ. Chứ tôi không cố ý làm trái.

5/. hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm:

- cán bộ, công chức, viên chức:

+ Nguyễn Kích- giám đốc TTPTQĐ: 304.312.500đ;

+ Nguyễn Kiên Cường- trưởng phòng TC-KH đông hòa: 366.750.000đ

+ Nguyễn Hưng Thái – chi cục trưởng CC thống kê đông hòa: 780.000.000đ

+ Lương Tấn Thuận -  nguyên chi cục trưởng CC thống kê TUY hòa: 780.000.000đ

+ Nguyễn Thành Nhân -  nguyên phó chủ tịch UBND huyện Tuy Hòa: 780.000.000đ

          Theo quy định pháp luật hôn nhân gia đình thì Quyền sử dụng đất được hình thành trong thời kì hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng (điều 27 luật HN& GIa Đình). Đây là quyền sử dụng đất cấp cho Hộ gia đình, mặc dù những người này không đủ điều kiện được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm nhưng vợ và con họ, những người có tên trong sổ Hộ Khẩu đủ điều kiện tính thiệt hại sai. Chưa có quy định pháp luật nào không cho phép họ được hỗ trợ. Đến nay đã có quy định cụ thể quy định tại khoản 2, Điều 6, TT 37 và khoản 3, Điều 20 quyết định 57).

          Thông tư 37/2014 ngày 30/6/2014 Bộ TN&MT:

          “Điều 6. Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp do cán bộ, công chức, viên chức (đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp) đang sử dụng đất

Hộ gia đình vừa có nhân khẩu là cán bộ, công chức, viên chức (đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp) vừa có nhân khẩu không phải là cán bộ, công chức, viên chức nhưng đang sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích sản xuất nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình đó thì nhân khẩu không phải là cán bộ, công chức, viên chức được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ điều kiện cụ thể tại địa phương quy định mức hỗ trợ cho phù hợp.”

          Quyết định 57 UBND tỉnh Phú Yên:

“Điều 20. Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp

Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo quy định tại Điều 84 của Luật Đất đai và Điều 20 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được quy định cụ thể như sau:

3. Hộ gia đình vừa có nhân khẩu là cán bộ, công chức, viên chức (đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp) vừa có nhân khẩu không phải là cán bộ, công chức, viên chức nhưng đang sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích sản xuất nông nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 6 của Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình đó thì nhân khẩu không phải là cán bộ, công chức, viên chức được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm theo diện tích đất thu hồi như sau:

Mức hỗ trợ cho nhân khẩu không phải là cán bộ, công chức, viên chức trong hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp được xác định bằng mức hỗ trợ theo quy định tại khoản 1 Điều này chia (:) tổng nhân khẩu của hộ gia đình nhân (x) số nhân khẩu không phải là cán bộ, công chức, viên chức. Nhân khẩu mới nhập khẩu sau ngày công bố thông báo thu hồi đất thì không được hỗ trợ; trường hợp cá biệt giao Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, giải quyết”

 - Người không thường trú, tạm trú hợp pháp tại địa phương:

+ Nguyễn Tui -  quảng ngãi: 780.000.000đ

+Nguyễn Văn Phổ -  tp,HCM: 460.000.000đ

+ Nguyễn Văn Dựa- Khánh Hòa: 435.318.000đ

+ Nguyễn Như Nam- Tp.HCM: 285.367.500đ

Không có văn bản pháp luật nào quy định: không thường trú, tạm trú hợp pháp tại địa phương, không thuộc đối tượng được giao đất thì không được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm.

Quyết định 10/2013/QĐ-UBND ngày 23/4/2013 UBND tỉnh Phú yên:

Điều 20. Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm

Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy định tại Điều 22 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP và Điều 16 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT được quy định cụ thể như sau:

Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không thuộc trường hợp quy định tại Điều 19 của Quy định này mà không được bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP còn được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo hình thức hỗ trợ bằng tiền. Giá đất và mức hỗ trợ quy định cụ thể như sau:

Nghị định 84/2007 Điều 45. Điều 45. Bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với đất sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 trở về sau mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

Nghị định 197/2004 Điều 8.  Điều kiện để được bồi thường đất

Người bị Nhà nước thu hồi đất, có một trong các điều kiện sau đây thì được bồi thường:

6. Bồi thường, hỗ trợ cho ông Nguyễn Hữu Phí: kết luận giám định xác định gây thiệt hại 3.371.754.019đ

Đánh giá thiệt hại như vậy để kết tội tôi là không đúng. Bởi vì, theo GCNQSDĐ do ông Phí cung cấp, bà Lê Thị Thanh đứng đại diện cho 4 hộ:
 Việc đứng tên 4 hộ là đúng theo quy định pháp luật. Những hộ có đủ điều kiện công nhận quyền sử dụng đất ( không phải là giao đất ). Có giấy CNQSDĐ nên các hộ có đủ điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi bị thu hồi đất. Chưa có cơ quan có thẩm quyền thu hồi GCNQSDĐ này ( khoản 2. Điều 64, luật đất đai 2013). Họ đủ điều kiện thu hồi đất. Nếu họ là cán bộ, công chức, viên chức, nhưng trong hộ có các thành viên không phải là công chứng viên chức thì vẫn được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm. Luật đất đai điều 48 quy định về  giấy chứng nhận quyền sữ dụng đất.

“Trường hợp thửa đất có nhiều cá nhân, hộ gia đình, tổ chức cùng sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho tùng cá nhân, từng hộ gia đình, từng tổ chức đồng quyền sử dụng.”

Luật đất đai 2013:

“Điều 64. Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai

“2, việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai phải căn cứ vào văn  bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi vi phạm pháp luật về đất đai”

           Đến nay, phương án được phê duyệt theo quyết định 806 ngày 4/10/2013 không đúng pháp luật. Việc bồi thường, hỗ trợ đối với 134ha chưa được triển khai thực hiện lại theo đúng quy định mới. Trong khi giám định của sở TN&MT thì căn cứ vào quy định của luật cũ. Do đó, cách tính thiệt hại không chính xác và không phù hợp với tình hình hiện nay. Cần phải tính toán lại theo quy định pháp luật mới.( điểm a, khoanr2, Điều 9 nghị định 197/2014, điểm c, khoản 4 điều 34 nghị định 47/2014 ngày 15/5/2014, khoản 3, điều 7, BLHS ).

Trường hợp nếu au khi công nhận thiệt hại này. Nhưng sau đó UBND thực hiện tính mức bồi thường trong thực tế cao hơn. Dẫn đến thiệt hại ít hơn. Vậy ai là người chịu trách nhiệm cho tính toán sai này.

  Hơn nữa, công tác bồi thường chưa triển khai thực hiện trên thực tế thì không thể tính hết được mức chi trả bồi thường, hỗ trợ. Thực tế cho thấy, UBND huyện Đông Hòa đã qua các bước kiểm kê, xác minh nhưng chưa tính toán chính xác. Trong khi cơ quan điều tra chỉ căn cứ vào giám định của sở TN&MT để kết luận, còn sở TN&MT lại căn cứ vào kết quả điều tra của cơ quan điều tra để kết luận. kết luận giám định chỉ tính toán trên lý thuyết ( nhưng vẫn có nhiều điểm tính sai), chưa áp dụng vào thực tiễn nên không thể căn cứ tính thiệt hại trong vụ án này.

Ông Hoàng có tài liệu văn bản hoặc chứng cứ nào để chứng minh được việc tôi chỉ đạo ông trong việc quy chủ và hợp thức hóa các thửa đất trên cho người nhà ông Phí không? Động cơ nào mà ông Hoàng lại giúp ông Phí thực hiện hợp thức hóa các thửa đất trên?  Sau đó lại khai tôi chỉ đạo?

Trong vụ án này, khả năng khắc phục thiệt hại, thu hồi lại số tiền chi sai là khắc phục được. Nguyên đơn dân sự chưa tiến hành các biện pháp cần thiêt, chưa yêu cầu người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật trả lại số tiền nói trên. Đến khi nào, UBND huyện Đông Hòa không thể thu hồi lại số tiền chi sai thì lúc đó mới xác định được thiệt hại thực tế và mới có căn cứ để xác định được hành vi phạm tội của các bị cáo.

Nghị định số 197/2004/NĐ-CP

“ Điều 9. Giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại

Nghị định 47/2014 ngày 15/5/2014

Điều 34. Xữ lý một số vấn đề phát sinh khi ban hành nghị định

“4. Trường hợp đã có quyết định thu hồi đất nhưng chưa có phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 thì giải quyết theo quy định sau đây:

Bộ luật hình sự quy định về hiệu lực như sau:

“Điều 7. Hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian

Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”

Căn cứ các quy định trên thì việc tính thiệt hại, giá đất sai quy định pháp luật dẫn đến quy kết tôi làm thiệt hại số tiền lớn là không có căn cứ. Ngoài ra việc giám định, kết quả giám định của Sở TN&MT là không có căn cứ, không đúng luật và kết quả giám định này phải được giám định lại.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử chưa đúng người, đúng tội, chưa đúng với tính chất, mức độ hậu quả của từng bị cáo và vao trò của từng bị cáo: bị cáo Sương có vị trí và thẩm quyền quan trọng trong việc giải quyết bồi thường, chi tiền, chủ tọa các phiên họp với vaio trò chủ đạo, giải quyết thì lại hình phạt rất nhẹ còn tôi với 12 năm tù là quá nặng, không đúng với mức độ, hậu quả, vai trò, tính chất hành vi của tôi, gay oan ức cho tôi, không công bằng cho tôi. Bị cáo Sương là người trực tiếp ký các văn bản quan trọng dẫn đến việc bồi thường hỗ trợ sai, gây thiệt hại như quyết định 806, quyết định chi....bị cáo Sương có vai trò quan trọng hơn, hành vi nguy hiểm hơn….trong vụ án này. Với sự chênh lệch quá lớn về mức độ hình phạt và cách đánh giá không đúng về vai trò, vị trí của bị cáo Sương và tôi cho thấy: việc đề nghị mức hình phạt của tòa án cấp sơ thẩm là không khách quan, không phù hợp và quá bất hợp lý, không đúng theo quy định, có dấu hiệu oan sai cho tôi.

 Từ những căn cứ trên, việc Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên áp dụng khoản 3, Điều 165 BLHS Tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, việc áp dụng tội danh trên là quá nặng đối với tôi. Tôi đã có những yêu cầu cho cấp dưới thực hiện các thủ tục theo luật quy định, ban GPMB cũng đã có thời gian để thực hiện các thủ tục trên. Tôi là chủ tịch chỉ có những chỉ đạo chung đối với dự án trên vì đó là vai trò của chủ tịch huyện, chỉ đạo trên phương hướng chung chứ không chi tiết cụ thể bởi vì đã giao trách nhiệm cho ban GPMB, tổ thẩm định… vì các ban nghành này được cử đi tập huấn đồng thời Phòng tài nguyên và môi trường và Trung tâm phát triển quỹ đất có những nghiệp vụ nghề nghiệp nên phải biết được những quy định thủ tục cần phải làm, riêng ông Sương là Trưởng ban giải phóng mặt bằng cũng có thông báo yêu cầu thành viên trong ban GPMB thực hiện đúng các việc, các thủ tục nhất định nhằm tuân theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên không biết tại sao, mà tổ thẩm định và các thành viên khác có thời gian, có thông báo, quyết định cụ thể mà vẩn bỏ qua các bước trên.

Việc tổ kiểm kê mật độ cây trồng tại vị trí nhà ông Kích và ông Thắng bị sai trên là do lỗi của ai? Theo cáo trạng của Viện kiểm sát thì việc kiểm kê trên do trực tiếp ông Thắng tự chỉ đạo tổ kiểm kê không thống kê theo mẫu quy định, việc làm trên của hai ông cho thấy trách nhiệm làm việc không đúng với quy định pháp luật, hơn nữa hai ông là thành viên của ban GPMB  biết rõ những quy định của pháp luật. Tuy nhiên các ông đã đích thân chỉ đạo tổ kiểm kê làm sai để hưởng lợi ích gì không không liên quan đến tôi

Do vậy, nếu tôi có tội thì cũng có thể chỉ là Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước. Tôi đã có những chỉ đạo cho cấp dưới thực hiện, nhưng tôi còn thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước (vi phạm các nguyên tắc, chế độ liên quan đến việc quản lý tài sản của nhà nước), do không hoàn thành hoặc làm không hết trách nhiệm được giao nên mới gây ra thiệt hại về tài sản, với ý chủ chủ quan là lỗi vô ý chứ không phải cố ý nên việc kết tội tôi vào tội Cố ý làm trái là thiếu căn cứ, trái quy định pháp luật, oan sai cho tôi.

Khi điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra đã không triệu tập các bị cáo và người liên quan như ông Phí, bà Nương...để đối chất với tôi theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự để làm sáng tỏ vụ án. Không trực tiếp cho đối chất giữa các bị cáo để làm sáng tỏ vụ án. Bởi các bị cáo khai tôi chỉ đạo nhưng không có chứng cứ là tôi chỉ đạo mà chỉ khai miệng mà vẫn kết tội tôi là vi phạm tố tụng.

Ngoài ra, kết quả thẩm định  của Sở Tài nguyên và môi trường về giá đất, mức bồi thường, cách bồi thường, chi tiền...tôi không đồng ý và yêu cầu phải giám định lại.

Không có bất kỳ văn bản nào tôi phê duyệt, chỉ đạo các bị cáo bỏ qua bước thẩm định nhưng cơ quan điều tra vẫn kết tội tôi, trọng cung hơn trọng chứng đẻ kết tội tôi vô căn cứ nên buộc phải điều tra lại.

Đây là dự án mà UBND huyện Đông Hòa chỉ nhận sự ủy quyền của UBND tỉnh nên việc quy kết và đổ lỗi toàn bộ trách nhiệm cho tôi là không công bằng cho tôi, không đúng quy định pháp luật khi người được ủy quyền chỉ thực hiện công việc trong phạm vi ủy quyền.

Như vậy, việc điều tra ở  cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được, không khắc phục được.

Do vậy, tôi làm đơn kêu oan này gửi đến các cấp lãnh đạo với các yêu cầu sau:

Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm quả Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại theo quy định pháp luật nhằm bảo đảm quyền lợi cho tôi, tránh oan sai cho tôi.

Việc xét xử phải đúng người, đúng tội, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội, tạo tính công bằng cho các bị cáo và bảo đảm sự bình đẳng của pháp luật.

Rất mong Qúy lãnh đạo cấp cao xem xét, giải quyết khách quan cho tôi, chỉ đạo Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hủy bản án sơ thẩm số 19/2016/HSST ngày 14/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên để điều tra, xét xử lại từ đầu nhằm bảo đảm quyền lợi cho tôi, tránh oan sai cho tôi.

Đính kèm theo đơn là toàn bộ hồ sơ, kết luận điều tra, Bản cáo trạng và Bản án sơ thẩm, đơn kháng cáo và hồ sơ liên quan của tôi.

Xin chân thành cảm ơn.

                                                          Tuy Hòa, ngày    tháng   năm 2017

                                                                   Người kêu oan

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006