Vụ kiện tranh chấp tài sản có dấu hiệu sai phạm liên quan đến việc cấp Giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở một tài sản khác.
Trong vụ kiện tranh chấp tài sản giữa bà Nguyễn Thị Vui và ông Huỳnh Lâm Phước (đang được TAND quận Bình Thạnh thụ lý giải quyết), đã có dấu hiệu sai phạm liên quan đến việc cấp Giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN) cho ông Phước ở một tài sản khác.

Hình minh họa.
UBND quận Bình Thạnh có làm thất thoát tiền thu thuế sử dụng đất của Nhà nước hay bỏ sót quyền lợi hợp pháp của những người đồng thừa kế trong việc cấp GCN cho ông Huỳnh Lâm Phước và vợ Lý Tú Ngọc tại địa chỉ 26/2 Huỳnh Đình Hai, P.24, Q.Bình Thạnh, TP HCM hay không đang là vấn đề được bàn cãi.
Ông Huỳnh Lâm Phước được hưởng thừa kế căn nhà 26/1 (nay là 26/2) Huỳnh Đình Hai, P.24, Q.Bình Thạnh theo di chúc của ông Huỳnh Văn Tràng (bố ông Phước) vào năm 1992.
Theo hồ sơ tại UBND quận Bình Thạnh lưu giữ, năm 1999, với tư cách người được hưởng thừa kế , ông Phước đứng tên kê khai đăng ký nhà đất thửa đất bằng khoán điền thổ số 1369 với tổng diện tích là gần 400m2.
Đến năm 2001, gia đình ông Phước xây dựng lại nhà trên diện tích đất trên và thực hiện mở rộng diện tích đất sinh hoạt ra phần diện tích giáp ranh.
Ngày 23/6/2008, ông Phước được UBND quận Bình Thạnh cấp GCN số 3138/2008 đối với căn nhà 26/1 Huỳnh Đình Hai với tổng diện tích là 1208,2m2.
Tại Phiếu chuyển thông tin địa chính để xác định nghĩa vụ tài chính số 2116 ngày 23/6/2008, UBND quận Bình Thạnh xác nhận tổng diện tích đất ông Phước xin cấp GCN là 1208,2m2 trên cơ sở là bằng khoán điền thổ số 1369 do ông Huỳnh Văn Tràng để lại và phần diện tích còn lại (792,2m2) được xét công nhận theo khoản 1 Điều 14, Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 (nghĩa là phải đóng tiền thuế sử dụng đất).
Thế nhưng, sau khi được cấp GCN ông Phước lại cho rằng, phần đất ngoài bằng khoán 1369 ông được cấp (phần đất lấn giáp ranh — PV) thuộc bằng khoán điền thổ 1356 và 172 cũng của cha ông là Huỳnh Văn Tràng đứng tên để lại nên đề nghị UBND quận xem xét lại nghĩa vụ tài chính.
Do đó, tại Phiếu chuyển 879/PC-TNMT ngày 25/3/2009, Phòng TN&MT quận Bình Thạnh đã xác nhận lại nhà đất của ông Phước được xét công nhận theo khoản 2, Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 (diện tích 1137,9m2) và theo Khoản 1 Điều 14, Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ (diện tích 70,3m2) Đáng nói, theo hồ sơ di chúc, ông Tràng chỉ cho ông Phước được hưởng thừa kế diện tích đất theo bằng khoán điền thổ 1369 chứ không cho ông Phước được hưởng 2 thửa đất có bằng khoán điền thổ 1356 và 172.
Như vậy, việc UBND quận Bình Thạnh chấp thuận cấp GCN cho ông Phước thêm 2 thửa đất 1356 và 172 là không hợp với ý chí của ông Tràng cũng như phù hợp với thực tế khách quan.
Bởi ông Tràng có 3 người vợ với 5 người con và tại thời điểm lập di chúc, ông Tràng có ý chí phân rõ tài sản của mình cho các con.
Cụ thể, tại di chúc ông Tràng chỉ rõ chỉ cho ông Phước thừa hưởng thửa đất 1369 và đáng chú ý cũng tại thời điểm năm 1999, gia đình ông Tràng đã có tranh chấp giữa những người con của ông Tràng về quyền sở hữu căn nhà 26/1 Huỳnh Đình Hai (ông Phước thừa nhận tại Tờ đăng ký nhà đất ngày 17/9/1999), nhưng vẫn được cơ quan này bỏ qua.
Công Lý
Chúng tôi Hãng luật chuyên thực hiệnthủ tục khai nhận di sản thừa kế và lập di chúc tại nhà theo yêu cầu của quý khách hàng, công bố di chúc và thực hiện việc phân chia di sản thừa kế theo di nguyện của người để lại di chúc.
Trong trường hợp người thân thích chết không để lại di chúc nhưng có để lại di sản là nhà đất, xe và các tài sản khác, nay những người thừa kế theo pháp luật muốn thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế nhưng thiếu giấy tờ chứng minh thuộc hàng thừa kế như không có giấy khai sinh do đã quá lâu, không có chứng tử do chết từ lâu, hoặc hiện tại đang định cư ở nước ngoài… Do không đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật nên bị cơ quan có thẩm quyền từ chối giải quyết mà không biết phải hoàn thiện hồ sơ bằng cách nào.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, sau khi người để lại di sản chết đi mà không để lại di chúc thì sẽ phát sinh quyền thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại Điều 676 của Bộ luật dân sự về hàng thừa kế thì:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Đối với những trường hợp người chết không để lại di chúc thì những người được hưởng thừa kế theo pháp luật phải tiến hành thủ tục khai nhận di sản thừa kế theo pháp luật nhưng hiện tại gia đình của quý vị có người đang định cư ở nước ngoài, những đồng thừa kế không có giấy khai sinh hoặc giấy chứng tử, giấy tờ nhà đất còn thiếu cần phải bổ túc theo quy định của pháp luật hiện hành kể cả trường hợp đã thực hiện việc uỷ quyền bên nước ngoài rồi nhưng không hợp lệ theo pháp luật Việt Nam, không chứng minh được là người được thừa kế do không còn quốc tịch Việt Nam… đều được xử lý nhanh chóng nếu tìm đến Văn phòng luật sư Thiên Định chúng tôi.
Văn phòng Luật sư Gia Đình với đội ngũ chúng tôi có trình độ chuyên môn chuyên thực hiện, tư vấn, cung cấp các dịch vụ pháp lý, đặc biệt là thủ tục khai nhận di sản thừa kế, thoả thuận phân chia di sản thừa kế theo di chúc và theo pháp luật, kể cả thực hiện thủ tục lập di chúc tại nhà theo yêu cầu của khách hàng. Tin chắc rằng chúng tôi sẽ đáp ứng các yêu cầu của quý khách hàng có liên quan đến thủ tục khai nhận di sản thừa kế, phân chia di sản thừa kế, lập di chúc và các thủ tục khác có liên quan đến việc xác lập quyền thừa kế của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, ngay cả trong trường hợp không còn giữ quốc tịch Việt Nam.
Với phương châm hoạt động “Uy tín – Tận tâm – Trách nhiệm” cùng kinh nghiệp xử lý nhiều hồ sơ thuộc dạng khó, phức tạp phải tái lập và bổ túc rất nhiều giấy tờ, tin rằng Văn phòng luật sư Gia Đình sẽ là nơi đáng tin cậy để quý khách hàng nhận được sự trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật về thủ tục hợp thức hoá nhà đất, khai nhận di sản thừa kế tại thành phố Hồ Chí Minh.
