Luật Sư Tranh Tụng

Phân tích cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định của pháp luật

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

Cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.

Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại Điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015:
 
"Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản
1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".
 
Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những thủ đoạn đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách nhiệm về tài sản lo sợ mà phải giao tài sản cho người phạm tội.
 
Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi (lời nói hoặc hành động) làm cho người bị đe doạ sợ nếu không giao tài sản cho người phạm tội thì sẽ bị đánh đập tra khảo, bị đau đớn về thể xác.
 
Thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần là những thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng để uy hiếp tinh thần của người có tài sản hoặc của người có trách nhiệm về tài sản như: Doạ sẽ tố cáo với chồng về việc vợ ngoại tình, doạ sẽ tố cáo việc phạm tội hoặc việc làm sai trái của người có tài sản hoặc người có tránh nhiệm về tài sản.v.v...
 
Có thể nói, cưỡng đoạt tài sản là tìm mọi cách làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm về tài sản sợ hãi phải giao tài sản cho người phạm tội. Như vậy, hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác mà người phạm tội thực hiện là nhằm chiếm đoạt tài sản.
 
- Chủ thể của tội phạm
 
Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản: người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản khi có hành vi vi phạm được quy định tại khoản 2 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015, vì khoản 1 Điều 170 là tội phạm nghiêm trọng. Trong khi đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
 
Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 170 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đã đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
 
- Các dấu hiệu về khách thể của tội phạm
 
Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản cũng tương tự như tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tức là cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Nếu có xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì không phải là những thiệt hại về thể chất (tính mạng, thương tật), mà chỉ có thể là những thiệt hại về tinh thần (sự sợ hãi, lo âu), tuy có ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng không gây ra thương tích cho người bị hại; tính chất và mức độ xâm phạm đến quan hệ nhân thân ít nghiêm trọng hơn nhiều so với tội cướp tài sản hoặc tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
 
- Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
 
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội cưỡng đoạt tài sản có thể thực hiện một trong những hành vi khách quan sau:
 
- Hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực
Đe doạ sẽ dùng vũ lực là hành vi có thể dược thực hiện bằng cử chỉ, hành động hoặc bằng lời nói, nhưng dù được thực hiện bằng hình thức nào thì việc dùng vũ lực cũng không xảy ra ngay tức khắc. Đây là dấu hiệu chủ yếu để phân biệt với tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự 3015. Trong thực tế, có những trường hợp người bị hại bị người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực nếu không giao tài sản cho người phạm tội nhưng người bị hại không sợ và không giao tài sản cho người phạm tội, sau đó người phạm tội đã thực hiện hành vi vũ lực đối với người bị hại thì cũng không phải là hành vi cướp tài sản mà vẫn là hành vi cưỡng đoạt tài sản. Ví dụ: C đã có hành vi đe doạ cháu O là học sinh lớp 6 nếu không đưa cho C 50.000 đồng thì ngày mai đi học sẽ bị đánh. Cháu O rất lo sợ nhưng không biết lấy đâu ra 50.000 đồng đưa cho C, nên hôm sau cháu O rủ thêm bốn bạn khác cùng đi để nếu C có gây sự thì đã có các bạn can thiệp. Hôm sau, cháu O cùng các bạn trên đường đi đến trường thì bị C chặn đường đánh vì cháu O không thực hiện yêu cầu của C, các bạn cùng đi với cháu O đã kịp báo cho lực lượng bảo vệ bắt C. Việc C thực hiện lời đe doạ của mình đối người bị hại nhưng không vì thế mà cho rằng hành vi của C là hành vi phạm tội cướp tài sản, vì sau khi đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với cháu O nếu cháu không giao tài sản thì hành vi cưỡng đoạt tài sản của C đã hoàn thành, còn việc C đánh cháu O thật là hậu quả do hành vi cưỡng đoạt tài sản của C gây ra cho cháu O chứ không phải là hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản của cháu O. Tuy nhiên, nếu trước hoặc trong khi đánh cháu O, C vẫn yêu cầu cháu O phải đưa tiền cho C, thì hành vi cưỡng đoạt tài sản của C đã chuyển hoá thành hành vi cướp tài sản và trong trường hợp này C sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự.
 
Nói chung, người phạm tội chỉ đe doạ dùng vũ lực, nếu người bị hại không giao tài sản thì người phạm tội cũng không dùng vũ lực. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp người phạm tội vẫn thực hiện lời đe doạ của mình để trả thù như trường hợp C đối với cháu O nêu trên.
 
Nếu người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực và nói rõ ý định của mình buộc người có trách nhiệm về tài sản phải giao tài sản cho người phạm tội trong một thời gian nhất định thì việc xác định hành vi phạm tội của họ dễ dàng hơn nhiều so với trường hợp người phạm tội đe doạ sẽ dùng vũ lực trực tiếp đối với người có trách nhiệm về tài hoặc đối với người khác để buộc họ phải giao tài sản cho người phạm tội. Đây cũng là trường hợp thực tiễn xét xử dễ nhầm lẫn với tội cướp tài sản, bởi vì nếu xác định người phạm tội đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc thì đó là hành vi phạm tội cướp tài sản.
 
Người phạm tội có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhưng cũng có thể đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người khác (chủ yếu là đối với người thân của người có trách nhiệm với tài sản). Ví dụ: L viết thư cho chị H với nội dung: “Nếu không giao cho L 20.000.000 đồng thì L sẽ chặn đường đánh cháu T hoặc sẽ bắt cóc cháu T đem bán ra nước ngoài”. Vì sợ L thực hiện lời đe doạ nên chị H đã phải giao cho T số tiền mà T yêu cầu.
 
-Những thủ đoạn người phạm tội dùng để uy hiếp tinh thần người bị hại nằm chiếm đoạt tài sản
 
Ngoài hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực đối với người có trách nhiệm về tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản, thì người phạm tội còn có thể thực hiện những thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản để chiếm đoạt tài sản.
 
Thông thường người phạm tội dùng những thủ đoạn như:
 
- Doạ sẽ huỷ hoại tài sản nếu người có trách nhiệm về tài sản không giao tài sản cho người phạm tội. Ví dụ: Doạ sẽ đốt nhà, đốt xe; doạ sẽ đập phá nhà, đập phá xe hoặc những tài sản khác...
 
- Doạ sẽ tố cáo hành vi sai phạm hoặc những bí mật đời tư của người có trách nhiệm về tài sản mà họ không muốn cho ai biết. Ví dụ: A biết B có ngoại tình với chị H, nên A viết thư yêu cầu B phải giao cho y một số tiền, nếu không y sẽ nói cho vợ của B biết về việc ngoại tình của B.
 
- Bịa đặt, vu khống người có trách nhiệm về tài sản.
- Giả danh là cán bộ, chiến sĩ Công an, Quân đội, Thuế vụ, Hải quan... để kiểm tra, bắt giữ, khám người có trách nhiệm về tài sản buộc họ phải giao nộp tiền hoặc tài sản. Ví dụ: T, Đ và H đã giả danh Cảnh sát giao thông để chặn xe tải do anh Đ lái, buộc anh Đ phải nộp một số tiền nếu không sẽ đưa xe về trụ sở. Vì anh Đchở hàng tươi sống nếu để chúng đưa xe về trụ sở thì sẽ hỏng hết hàng nên anh Đ đã giáo cho bọn chúng một số tiền.
 
Cưỡng đoạt tài sản là hành vi được thực hiện một cách công khai, trắng trợn. Tuy nhiên, sự công khai trắng trợn chủ yếu đối với người có trách nhiệm về tài sản, còn đối với những người khác, người phạm tội không quan tâm, nếu hành vi phạm tội được thực hiện ở nơi công cộng, người phạm tội chỉ công khai trắng trợn với người có trách nhiệm về tài sản còn những người khác thì người phạm tội lại có ý thức lén lút.
 
b. Hậu quả
 
Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức, điều này được thể hiện ngay điều văn của điều luật “nhằm chiếm đoạt tài sản”, do đó cũng như đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt, hậu quả không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi đe dạo sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.
 
Nếu hậu quả chưa xảy ra (người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản) thì cũng không vì thế mà cho rằng tội cưỡng đoạt tài sản được thực hiện ở giai đoạn chưa đạt, vì người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan đó là đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc đã dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm đến tài sản. Tuy nhiên, nếu người phạm tội chưa thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc chưa dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản, thì hành vi phạm tội thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội.
Do cấu tạo của Điều 170 Bộ luật hình sự không có quy định trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác là tình tiết định khung hình phạt. Do đó, nếu người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị hại hoặc của người khác thì tuy từng trường hợp mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
 
- Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm
 
Cũng như đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản lại nhằm một mục đích khác mà không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội cưỡng đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi đã thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)
Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Nên Thuê Luật Sư Khi Nào?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

Luật sư hiện đang là một nghề rất quen thuộc với tất cả mọi người, hầu hết mọi người đều đã đang hoặc sẽ có nhu cầu thuê Luật sư. Tuy nhiên mỗi khi có nhu cầu thuê Luật sư, đa số mọi người đều băn khoăn: Cách tìm thuê Luật sư như thế nào, cách thức thuê Luật sư ra sao, phí thuê Luật sư tính như thế nào, làm thế nào để thuê được Luật sư phù hợp với vụ, việc của mình mà tiết kiệm chi phí nhất. Sau đây Luật sư Gia Đình sẽ nêu ra những vấn đề cơ bản liên quan đến việc thuê Luật sư 

Những điều cần biết khi thuê Luật sư

Bạn tham khảo bài viết liên quan:

Luật sư Gia Đình chúng tôi chuyên cung cấp các dịch vụ pháp lý, Luật sư giỏi, Luật sư tại tại TPHCM,.. và các tỉnh thành khác trên cả nước.

Các dịch vụ pháp lý của chúng tôi như:

  • Thuê Luật sư tư vấn;

  • Thuê Luật sư giỏi;

  • Luật sư hình sự;

  • Luật sư tư vấn hôn nhân gia đình;

  • Luật sư giải quyết tranh chấp dân sự;

  • Luật sư giải quyết tranh chấp đất đai;

  • Luật sư giải quyết tranh chấp trong ly hôn;

  • Cung cấp dịch vụ pháp lý mảng doanh nghiệp;

  • Cung cấp dịch vụ pháp lý mảng đầu tư;

  • Cung cấp dịch vụ pháp lý mảng sở hữu trí tuệ;

  • Cung cấp dịch vụ pháp lý mảng xin giấy phép con;

  • Cung cấp dịch vụ pháp lý mảng dân sự;

  • Cung cấp dịch vụ pháp lý mảng đất đai;

  • Cung cấp dịch vụ pháp lý mảng hôn nhân gia đình;

  • Cung cấp dịch vụ pháp lý mảng hình sự,...

I. Những điều cần biết khi thuê Luật sư

Khi bạn đã, đang và sắp vướng vào một vụ, việc pháp lý cần đến sự tư vấn, hỗ trợ của Luật sư bạn thường đang có tâm lý như: Băn khoăn, bối rối, lo sợ, thậm trí hoảng loạn,... do áp lực tư vụ, việc đó gây ra. Từ đó dẫn đến việc lựa chọn thuê Luật sư trở lên gấp gáp, không có nhiều thời gian hay tâm trí để lựa chọn dẫn đễn việc hiệu quả của việc thuê Luật sư không cao, chi phí tốn kém hoặc kéo dài vụ, việc không theo ý muốn,... Do đó mỗi người nên chuẩn bị cho mình những kiến thức cơ bản cho việc thuê Luật sư ngay từ bây giờ hoặc khi vướng vào vụ, việc hãy bình tĩnh và nghiên cứu các nội dung sau:

 1. Khi nào nên thuê Luật sư

Tùy theo vụ, việc thì thời điểm thuê Luật sư sẽ khác nhau. Tuy nhiên nên cân nhắc sao cho Luật sư vào cuộc có thể nắm bắt và giải quyết được trọn vẹn nội dung việc của mình, tất cả nên chủ động tránh bị động làm cho vụ, việc càng thêm rối. Ví dụ như:

  • Đối với vụ, việc phát sinh thường xuyên như việc giao dịch, ký hợp đồng làm ăn với đối tác của công ty hay cá nhân: Bạn nên tham khảo hoặc có Luật sư riêng để kịp thời tham vấn ngay từ đầu để có cái nhìn thông suốt hơn. Như vậy không những giúp tăng hiệu quả của công việc mà còn giảm thiểu rủi ro tổn thất cho công việc làm ăn của mình;

  • Đối với các vụ, việc phát sinh thường nhật hàng ngày như các giao dịch dân sự hay hôn nhân gia đình,... bạn cũng nên có sự tư vấn thường xuyên của Luật sư trước mỗi vụ, việc đó để đảm bảo duy trì mối quan hệ và tăng hiệu quả công việc;

  • Đối với các vụ, việc tranh chấp phát sinh mang tính chất dân sự như: Tranh chấp đất đai, bồi thường đền bù đất đai, tranh chấp tài sản hoặc quyền nuôi con trong ly hôn, thừa kế, vay nợ,... bạn nên tìm hến sự tư vấn của Luật sư khi cảm thấy vụ, việc đi vào hướng bất lợi cho mình, mình bị thiệt hại hoặc việc không như mong muốn. Như vậy Luật sư vào cuộc sẽ tư vấn chi tiết và phân tích thiệt hơn về vụ, việc cho bạn dựa trên các căn cứ pháp lý. Từ đó bạn có quyết định sáng suốt hơn cho hướng đi của vụ, việc. Khi quyết định hướng giải quyết Luật sư có thể vào cuộc cùng bạn, đại diện bạn tđàm phán cùng bên kia hay đại diện bạn trước tòa, giúp bạn làm đơn từ,... Như vậy vụ, việc của bạn sẽ có kết cục tốt hơn hoặc ít nhất bạn không bị thiệt thòi, bất công dựa theo căn cứ của pháp luật;

  • Đối với những vụ việc mang tính chất thủ tục, hành chính, dân sự như:  Các giao dịch mua bán tài sản như nhà, đất hay tài sản hữu hình khác... quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bản quyền hay các tài sản vô hình khác,... : Bạn có thể thuê Luật sư khi có dự định và chuẩn bị thực hiện. Luật sư sẽ tư vấn cho bạn các vấn đề pháp lý liên quan, kiểm tra tình trạng của tài sản giao dịch như quyền sở hữu,... Từ đó đảm bảo giao dịch của bạn có hiệu lực pháp lý tránh các tổn thất không đáng có. Còn với các thủ tục hành chính như: Thành lập mới, thêm bớt các nội dung liên quan đến Luật doanh nghiệp hay đầu tư tài chính, đầu tư nước ngoài,... Luật sư sẽ tư vấn cho bạn các vấn đề liên quan, từ đó bạn lựa chọn hướng đi thích hợp, sau đó bạn có thể thuê dịch vụ trọn gói để Luật sư thực hiện công việc với cơ quan nhà nước, bạn chỉ cần ký hồ sơ và nhận kết quả. Thủ tục sẽ không bị kéo dài và hiệu quả đầu tư sẽ tăng;

  • Khi vướng phải các vụ, việc mang tính chất hình sự bạn có thể là bị can, bị cáo,... Khi vướng vào vụ, việc như vậy bạn nên xem xét hình hình của vụ, việc để quyết định có thuê Luật sư hay không. Nếu quyết định có thuê Luật sư thì bạn nên liên hệ càng sớm càng tốt để Luật sư vào cuộc đảm bảo cho bạn các quyền lợi và giảm thiểu oan sai cũng như giải quyết việc nhanh chóng. Đơn giản như việc: Viết đơn tố giác tội phạm nếu không tham khảo ý kiến của Luật sư ngay từ đầu, đơn tố giác của bạn không nêu bật nên được tính cấp thiết của vấn đề dẫn đến việc chậm được xử lý hoặc nguy hiểm hơn câu từ ý viết của bạn không chuẩn có thể thành vu oan người bạn tố giác dẫn đến hậu quả khó lường,...

2. Luật sư có thể giúp bạn thực hiện các công viêc

Bạn có thể thuê Luật sư thực hiện các công việc như:

  • Tư vấn các vấn đề liên quan đến pháp luật như: Dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình, đất đai, thừa kế, sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp,... cho cá nhân, cơ quan, tổ chức;

  • Đại diện đàm phán, trao đổi công việc với đối tác;

  • Tư vấn, soạn các loại hợp đồng, đơn từ,...;

  • Tư vấn, soạn hồ sơ để tiến hành các thủ tục hành chính;

  • Tư vấn, soạn hồ sơ để xin các loại giấy phép;

  • Tư vấn, đại diện bảo vệ quyền lợi và tham gia giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ;

  • Tư vấn, đại diện bảo vệ quyền lợi và tham gia giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế, thương mại (tranh chấp hợp đồng, nợ khó đòi…);

  • Tư vấn, đại diện bảo vệ quyền lợi và tham gia giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực lao động (chấm dứt hợp đồng lao động, kỷ luật sa thải …);

  • Tư vấn, đại diện bảo vệ quyền lợi và tham gia giải quyết tranh chấp dân sự (tranh chấp tài sản, đất đai, thừa kế, hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…);

  • Tư vấn, hướng dẫn khách hàng khởi kiện, chuẩn bị hồ sơ theo kiện;

  • Soạn thảo đơn từ, các văn bản gửi tới các cơ quan có thẩm quyền (đơn khởi kiện, các đề xuất trong quá trình tố tụng, yêu cầu thi hành án…);

  • Tư vấn cách thức giải quyết tranh chấp, đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của các bên tranh chấp;

  • Điều tra thu thập chứng cứ - tài liệu, kiểm tra đánh giá chứng cứ - tài liệu để trình trước Tòa;

  • Soạn thảo đơn, chuẩn bị hồ sơ kiện cho bạn;

  • Gặp gỡ, trao đổi với các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan trọng tài để bảo vệ tốt nhất cho quyền và nghĩa vụ hợp pháp của bạn;

  • Tham gia tố tụng với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ trong các vụ án dân sự, hình sự, kinh tế, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình,...;

  • Tham gia tố tụng với tư cách là luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo trước tòa nhằm minh oan hoặc giảm nhẹ mức án cho bị can, bị cáo.

  • Đại diện theo ủy quyền ngoài tố tụng,... và nhiều nội dung công việc khác nữa

3. Phí thuê Luật sư

Đây là điều mà hầu hết mọi người quan tâm và cân nhắc khi thuê Luật sư. Cũng giống như các công việc và ngành nghề khác nghề Luật sư giúp thỏa mãn nhu cầu công việc nào đó cho khách hàng và nhận về mức phí nhất định. Tuy nhiên là ngành nghề dịch vụ lại tương đối mơ hồ, trìu tượng do đó khách hàng rất khó nắm bắt phí và cũng không có con số nào cụ thể cho dịch vụ này. Nhưng về cơ bản thì việc tính chi phí có những nguyên tắc chung như sau:

3.1 Căn cứ tính phí thuê Luật sư

Do mỗi vụ, việc có tính chất, quy mô và độ khó khác nhau do đó mức phí có thể căn cứ theo:

Mức độ phức tạp của vụ, việc;

Thời gian của luật sư (hoặc nhóm luật sư) bỏ ra để thực hiện vụ, việc;

Kinh nghiệm và uy tín của Luật sư hoặc văn phòng/công ty Luật đó;

Yêu cầu cụ thể của khách hàng về trách nhiệm, hiệu quả thực hiện vụ, việc.

3.2 Phương thức tính phí thuê Luật sư

Có thể tính phí thuê Luật sư theo:

Tính phí theo giờ làm việc của luật sư. Ví dụ như phí tư vấn tính tính theo .... vnđ/tiếng;

Vụ, việc với mức thù lao trọn gói. Ví dụ phí của vụ, việc .... vnđ/vụ, việc;

Vụ, việc với mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm của giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị hợp đồng, giá trị dự án. Ví dụ phí của vụ, việc là:   ...% của giá trị tài sản tranh chấp... và một số cách tính khác.

3.3 Cách trả phí thuê luật sư

Tùy văn phòng, Luật sư khác nhau hoặc thỏa thuận của khách hàng với văn phòng thì cách thu phí thuê Luật sư sẽ khác nhau. Tuy nhiên có thể theo các cách sau:

Thanh toán 100% phí ngay sau khi ký hợp đồng thuê Luật sư;

Thanh toán .... % ngay sau khi ký hợp đồng còn .... % còn lại sẽ thanh toán vào các giai đoạn tiến hành giải quyết vụ, việc;

Thanh toán phí cứng (phí giải quyết vụ, việc) trước, còn phí thưởng (% giá trị tài sản thắng kiện,...) sau khi vụ ván kết thúc,...

II Thuê Luật sư theo cách nào

Thuê Luật sư để giải quyết vụ, việc là việc rất quan trọng, đặc biệt là với những vụ án hình sự hay tranh chấp dân sự lớn ảnh hưởng đến tiền, tài sản, quyền công dân, sự tự do hoặc đôi khi cả mạng sống của mình là việc làm rất quan trọng. Do đó cần cân nhắc, lựa chọn sao cho phù hợp với vụ, việc của mình mà vẫn tiết kiệm được chi phí. Không nhất thiết phải thuê Luật sư nổi tiếng nhất, giá đắt nhất, dịch vụ tốt nhất mà nên chọn Luật sư phù hợp với vụ, việc của mình, Luật sư tận tâm với khách hàng mà chi phí hợp lý, thuận tiện cho việc đi lại.

Bạn có thể tham khảo những cách tìm thuê Luật sư sau:

  • Thuê Luật sư qua người quen giới thiệu: Đây là cách yên tâm và an toàn, vì đã biết cách làm việc của người đó và người quen cũng từng sử dụng dịch vụ và hài lòng. Tuy nhiên bạn vẫn nên cân nhắc bởi vụ việc của bạn có thể không giống với vụ, việc của người quen của người quen kia do đó Luật sư có thể không chuyên về vụ, việc của bạn hoặc vị trí xa, và nếu không tìm hiểu thêm các đầu mối khác nữa bạn sẽ bị giới hạn Luật sư để bạn chọn lựa, so sánh và khảo giá cũng như dịch vụ,..

  • Thuê Luật sư thông qua tìm hiểu trên mạng: Đây là cách làm đa số mọi người hay làm hiện nay do sự phát triển và tiện lợi của mạng xã hội và công cụ tìm kiếm. Bạn có thể dễ dàng lựa chọn, so sánh và tham khảo các bên. Tuy nhiên do chưa từng tiếp xúc, bạn không đánh giá hết được chất lượng dịch vụ của Luật sư, văn phòng đó dẫn đến hiệu qua công việc không cao hoặc không được như hứa hẹn ban đầu.

  • Qua thông tin đại chúng, theo dõi các vụ, việc pháp lý trên các chương trình truyền hình, thời sự,..: Các này giúp bạn nắm được thông tin của văn phòng, Luật sư khá chi tiết và tin tưởng. Khi cảm thấy văn phòng có những điểm phù hợp về địa lý đi lại thuận tiện, khả năng chuyên môn phù hợp với vụ, việc của mình thì bạn có thể cân nhắc để sử dụng dịch vụ của văn phòng đó. Tuy nhiên đây là sự trùng hợp và khả năng lựa chọn cho phù hợp với vụ, việc cảu bạn không cao. Do đó cách này ít được dùng.

  • Thông qua địa chỉ, thông tin của các văn phòng quanh khu vực nơi bạn sinh sống: Cách này khá tối ưu do bạn có thể chủ động tiếp cận, tham khảo trực tiếp dịch vụ của văn phòng, Luật sư bằng cách đến gặp trực tiếp và đưa ra vấn đề của mình, xem xét báo phí và chất lượng dịch vụ của văn phòng đó. Tuy nhiên cách này bạn cũng chưa đánh giá hết được chất lượng dịch vụ của văn phòng, Luật sư đó hoặc xung quanh địa bàn bạn sống giới hạn ít văn phòng, Luật sư và kỹ năng cũng như chuyên môn không cao dẫn đến chất lượng dịch vụ và hiệu quả công việc không cao.

  • Và một số cách khác nữa,...

III. Tiêu chí đánh giá Luật sư, văn phòng

Để đánh giá một văn phòng, Luật sư có thể căn cứ theo nhiều yếu tố. Cơ bản thông qua những yếu tố sau:

  • Đánh giá Luật sư qua thâm niên công tác: Càng làm lâu trong nghề, tuổi nghề cao thường đi kèm với việc Luật sư có chuyên môn và kinh nghiệm trong công việc càng nhiều. Tuy nhiên đây cũng chỉ là hiểu theo đa số còn trong thực tế có thể sẽ khác. Những người tuổi nghề chưa cao nhưng lại có kỹ năng, chuyên môn cao hơn nhiều so với người có tuổi nghề cao. Điều này còn tùy theo tố chất, độ nhạy bén, học tập rèn luyện và có thể cũng do người trẻ được kế thừa kinh nghiệm từ người đi trước,...

  • Đánh giá Luật sư qua danh tiếng , tên tuổi của Luật sư đó qua thông tin cập nhật được từ nhiều nguồn;

  • Đánh giá Luật sư qua quy mô văn phòng, mức độ chuyên nghiệp khi tiếp cận và giải quyết vụ, việc

  • Đánh giá Luật sư qua trò chuyện trực tiếp: Luật sư giỏi và có tâm là người bình tĩnh lắng nghe vấn đề của bạn, bình tĩnh đánh giá phân tích và hướng dẫn bạn, không khoe mẽ, khuếch trương, ba hoa hay hứa hẹn hão huyền.

Trên đây là một số lưu ý cần biết khi thuê Luật sư mà Luật sư Gia Đình cung cấp cho bạn. Mong hữu ích cho bạn trong cuộc sống.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

      Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Luật Sư Chuyên Bào Chữa Về Án Ma Túy

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

Án ma túy luôn là một trong những loại án phức tạp và khó khăn trong quá trình tham gia bào chữa . Ngoài những khó khăn do tính chất đặc thù của loại án này như quy mô vụ án lớn, địa bàn rộng, đối tượng phạm tội phức tạp, phạm tội có tổ chức, . thì một khó khăn khác mang tính trọng yếu đó là quy định pháp luật chưa rõ ràng, thống nhất đã gây ra nhiều khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án.
Hệ thống các quy phạm pháp luật còn thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ, các văn bản hướng dẫn dưới luật chưa đầy đủ, kịp thời. Một số văn bản hướng dẫn thực hiện BLHS còn nhiều bất cập, không phù hợp với thực tiễn diễn biến tình hình tội phạm. BLHS quy định nhiều tội danh trong cùng một điều luật với chế tài, khung hình phạt chung cho tất cả các hành vi phạm tội là chưa hợp lý, gây khó khăn cho việc định tội danh và quyết định hình phạt chính xác, công bằng vì tính chất, mức độ, nguy hiểm của mỗi hành vi không giống nhau. 
Một số văn bản có những nội dung không còn phù hợp với hành vi phát sinh trong xã hội dẫn đến việc áp dụng BLHS còn xảy ra quan điểm không thống nhất nhau cần được hướng dẫn cụ thể. Văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật như Thông tư liên tịch số 172007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự 1999chưa rõ ràng, kịp thời và thống nhất. 
Ngay sau khi Thông tư liên tịch số 17 ban hành, trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số vấn đề, gây ra những cách hiểu và áp dụng khác nhau tại các địa phương, trong đó có nội dung 1.4 mục I hướng dẫn: “Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất” hướng dẫn này không rõ ràng, dẫn đến cách hiểu không thống nhất và thực tế không phù hợp với quy định tại các Điều 193, 194, 195 của Bộ luật Hình sự. 
 
Trong các Điều luật này chỉ quy định trọng lượng làm căn cứ định tội, định khung hình phạt để truy tố, xét xử. Vì vậy, vấn đề giám định hàm lượng chất ma túy, tại Hội nghị sơ kết 01 năm và 03 năm thực hiện Thông tư liên tịch số 17 do Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức, có đại diện lãnh đạo cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và lãnh đạo VKSND địa phương cũng đã nêu những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện và đề nghị bỏ quy định giám định hàm lượng các chất thu giữ nghi là chất ma túy, mà chỉ thực hiện việc giám định hàm lượng để tính trọng lượng chất ma túy đối với các chất quy định tại điểm a, b nêu trong phần 1.1 Mục I và tiểu mục 3.5, mục 3, phần II  Thông tư liên tịch số 17 (cụ thể gồm: Ma túy pha vào dung dịch; xái thuốc phiện; thuốc có chứa chất gây nghiện). Từ kết quả hội nghị, VKSND tối cao đã có nhiều văn bản kiến nghị gửi Bộ Công an đề nghị sửa đổi Thông tư liên tịch số 17. Tuy nhiên, đến nay Thông tư liên tịch số 17 chưa được sửa đổi, bổ sung.

Những khó khăn, vướng mắc liên quan đến Công văn số 234 và Thông báo số 264. luật sư, văn phòng luật sư, công ty luật, hàng luật, luật sư giỏi

Tính pháp lý của Công văn số 234 và Thông báo 264
Ngày 17/9/2014, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 234/TANDTC-HS hướng dẫn Tòa án các địa phương giải quyết án ma túy, trong đó có nội dung: “Bắt buộc phải giám định hàm lượng của các chất thu giữ nghi là chất ma túy để lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo theo quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999” (sau đây viết tắt là Công văn số 234). 
 
Về tính pháp lý của Công văn số 234 thì đây là công văn đơn ngành do Tòa án nhân dân tối cao ban hành để hướng dẫn Tòa án địa phương áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, Công văn số 234 đã vượt quá quy định của pháp luật khi có thêm cụm từ “để lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo”. Tiếp theo đó, ngày 29/10/2014, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông báo số 264/TANDTC-TB trong đó quy định “việc giám định hàm lượng chất ma túy là bắt buộc đối với các chất thu giữ được nghi là chất ma túy, để từ đó xác định trọng lượng chất ma túy làm căn cứ xử phạt bị cáo (trọng lượng chất ma túy được hiểu là trọng lượng ma túy tinh chất, ma túy nguyên chất)”. Thông báo 264 lại có những nội dung vượt quá quy định của pháp luật: (trọng lượng chất ma túy được hiểu là trọng lượng ma túy tinh chất, ma túy nguyên chất)”.
 
Theo quy định hiện hành:Việc xử lý các tội phạm về ma túy đều căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và Thông tư liên tịch số 17, trong đó chất thu được phải được quy định trong danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành. Việc truy tố, xét xử căn cứ vào trọng lượng, số lượng chất ma túy thu giữ được quy định chỉ có 03 trường hợp cụ thể tại điểm a, b tiểu mục 1.1, mục 1, phần I và tiểu mục 3.5, mục 3, phần II thông tư liên tịch số 17.
 
Do đó, với các quy định của pháp luật hiện hành ngoài các trường hợp cụ thể nêu trên thì không có trường hợp nào được xác định trọng lượng chất ma túy trên cơ sở giám định hàm lượng. Việc quy định thêm các trường hợp xác định trọng lượng trên cơ sở tỷ lệ hàm lượng ma túy là trái với quy định của Bộ luật Hình sự, không phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và sẽ nảy sinh  mâu thuẫn trong áp dụng thực tiễn. 
Chỉ đặt vấn đề bắt buộc giám định hàm lượng chất ma túy trong các trường hợp quy định tại Điểm a, b Mục 1.1 Phần I và quy định tại Mục 3.5 Phần II Thông tư liên tịch số 17. Mặt khác, cũng tại điểm 1.4, Mục I Thông tư liên tịch 17 quy định: “Nếu chất được giám định không phải là chất ma tuý hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý, nhưng người thực hiện hành vi ý thức rằng chất đó là chất ma tuý hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý thì tuỳ hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma tuý”. 
 
Căn cứ vào quy định này, thì ngay cả trong trường hợp giám định chất đã thu giữ không phải là ma túy mà người thực hiện ý thức chất đó là ma túy vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm ma túy. Do đó, Công văn số 234 và Thông báo 264 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như trên là không đúng với quy định của Bộ luật hình sự, Thông tư liên tịch số 17 (vì tại Luật và văn bản này không quy định về việc bắt buộc giám định hàm lượng của tất cả các chất thu giữ nghi là chất ma túy để lấy đó làm căn cứ kết tội và cũng không có quy định nào bắt buộc phải giám định trọng lượng chất ma túy (ma túy tinh chất, ma túy nguyên chất) làm căn cứ xử phạt bị cáo. 
 
Mặt khác, theo quy định tại điểm 5 Mục III Thông tư liên tịch số 17 quy định: “Trong quá trình thực hiện Thông tư này, nếu thấy có vướng mắc hoặc cần phải hướng dẫn, giải thích bổ sung thì đề nghị phản ánh về Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để có giải thích, hướng dẫn kịp thời”. Việc Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 234 để hướng dẫn Tòa án địa phương trong việc áp dụng pháp luật nhưng lại có giá trị thực tiễn rất quan trọng đối với cả ba cơ quan tố tụng Công an,  Kiểm sát, Tòa án, dẫn đến nhiều khó khăn, vướng mắc, gây cản trở tới công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy thời gian qua.
 
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cũng không nước nào quy định phải giám định hàm lượng của tất cả các chất thu giữ nghi là ma túy để tính trọng lượng ma túy tinh chất, ma túy tinh chất và cũng không coi việc giám định hàm lượng các chất ma túy là căn cứ duy nhất để kết tội. luật sư, văn phòng luật sư, công ty luật, hàng luật, luật sư giỏi

Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn khi thực hiện Công văn 234 và Thông báo 264

Khi cơ quan Tòa án các cấp thực hiện Công văn số 234 và Thông báo số 264, phần lớn Tòa án địa phương đã quyết định trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để điều tra bổ sung với lý do chưa giám định hàm lượng các chất thu giữ nghi là chất ma túy và Viện kiểm sát tiếp tục trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra do không có sự thống nhất về nhận thức pháp luật. Từ đó, đã nảy sinh nhiều khó khăn, vướng mắc cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát các cấp trong thực tiễn giải quyết án ma túy, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổng hợp như sau: 
 
– Khi bắt quả tang, bắt khẩn cấp đối tượng phạm tội ma túy gặp nhiều khó khăn trong công tác phê chuẩn các quyết định, lệnh của cơ quan điều tra vì không thể xác định ngay được hàm lượng chất ma túy để xử lý hình sự hay xử lý hành chính cũng như việc phê chuẩn áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam. 
 
Đối với những trường hợp bắt giữ đối tượng mà trọng lượng ma túy thu giữ chỉ tương đương với mức khởi điểm để xử lý hình sự sẽ gặp khó khăn vì không xác định được ngay hàm lượng nên Viện kiểm sát khó ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc phê chuẩn áp dụng biện pháp ngăn chặn (tạm giữ, tạm giam) của cơ quan điều tra.
Thời gian vừa qua, xuất hiện tư tưởng chỉ bắt các vụ có khả năng thu giữ số lượng ma túy lớn, không bắt những vụ buôn bán, tàng trữ nhỏ lẻ, trong khi chính những vụ buôn bán ma túy nhỏ lẻ thường là yếu tố gây mất trật tự trị an, bức xúc trong quần chúng nhân dân. Đồng thời, có nhiều trường hợp đã gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự không còn căn cứ để gia hạn tạm giam thì liên ngành tư pháp địa phương chưa có hướng giải quyết, chờ hướng dẫn của liên ngành trung ương, dẫn đến việc áp dụng biện pháp tạm giam gặp rất nhiều khó khăn và không theo quy định của pháp luật (Điện Biên, Cơ quan điều tra gia hạn: 57 vụ/72 bị can; Viện kiểm sát: 16 vụ/22 bị can; Tòa án: 18 vụ/37 bị cáo; Hà Nội các cơ quan tiến hành tố tụng phải hợp thức lệnh tạm giam đối với 613 đối tượng bằng việc trả hồ sơ giữa các cơ quan tố tụng nhiều lần mà không đưa ra xét xử được)… luật sư, luat su
 
Bên cạnh đó, thời gian qua Cơ quan điều tra chưa bắt được vụ án nào các đối tượng phạm tội mua bán, vận chuyển, tàng trữ ma túy nguyên chất mà các chất ma túy đều ở dạng thành phẩm qua chiết xuất như bánh heroin, bột heroin và các đối tượng mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy khi mua bán ma túy cũng không bao giờ mặc cả giá về hàm lượng. 
 
Viện kiểm sát đã hoàn thành cáo trạng truy tố nhưng chưa giám định hàm lượng chất ma túy, khi chuyển hồ sơ vụ án để xét xử thì Tòa án không nhận gây tồn đọng số lượng lớn các vụ án ma túy ở Viện kiểm sát và ở Tòa án. Tại Tp. Hồ Chí Minh là 1.229 vụ/1.829 đối tượng, trong đó: Giai đoạn điều tra: 612 vụ/862 bị can; giai đoạn truy tố: 300 vụ/500 bị can; giai đoạn xét xử: 317 vụ/467 bị cáo. Tại Hà Nội 924 vụ/1.096 đối tượng: Giai đoạn điều tra 557 vụ/684 bị can (trong đó có 400 vụ không đủ trọng lượng ma túy tinh khiết thì không truy tố, xét xử được phải đình chỉ điều tra); giai đoạn truy tố: 141 vụ/187 bị can, sau khi giám định có 100 vụ không đủ trọng lượng ma túy tinh khiết phải đình chỉ điều tra; giai đoạn xét xử: 157 vụ/190 bị cáo, có khoảng 120 vụ không đủ trọng lượng tinh khiết phải đình chỉ điều tra; Bà Rịa – Vũng Tàu 79 vụ/101 đối tượng (giai đoạn điều tra 28 vụ/41 bị can; giai đoạn truy tố 05 vụ/05 bị can; giai đoạn xét xử 46 vụ/55 bị cáo); Tiền Giang 38 vụ/53 bị can… 
 
Đối với các vụ án ma túy điều tra qua truy xét không thu giữ được ma túy quá trình điều tra, truy tố xác định đối tượng phạm tội đã mua bán, vận chuyển… hàng chục, trăm bánh heroin (khẳng định qua các lời khai, còn thực tế không thu giữ được bánh heroin nào) nhưng không có vật chứng để giám định hàm lượng nên không có căn cứ để xử lý đối tượng phạm tội theo hàm lượng được. Hoặc các đối tượng trước đây bị khởi tố điều tra theo trọng lượng ma túy truy xét qua lời khai, bỏ trốn bị truy nã nay bắt được để xử lý, việc trưng cầu giám định hàm lượng là bất cập, dẫn đến không thể xử lý được các đối tượng là chủ mưu, cầm đầu trong vụ án. Khó xử lý các đối tượng phạm tội Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy, trọng lượng ma túy thu được rất ít, đã tổ chức giám định loại, trọng lượng ma túy trước đây, nay không còn đủ lượng hoặc không còn mẫu để giám định hàm lượng dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Mặt khác, có những vụ án bắt giữ hàng chục nghìn viên ma túy tổng hợp có nhiều loại ma túy khác nhau thì sẽ phải giám định hàm lượng từng viên một thì cơ quan giám định không thể thực hiện được và không đảm bảo thời gian, dẫn đến vi phạm thời hạn giải quyết án theo quy định của BLTTHS. Do đó, thời gian vừa qua, một số địa phương đã không bắt, giữ, xử lý các vụ án truy xét. 
 
Sau khi văn bản số 234 ban hành, tại nhiều địa phương Tòa án các cấp đã trả lại phần lớn hồ sơ cho Viện kiểm sát để yêu cầu giám định hàm lượng, tập trung nhiều ở cấp huyện, dẫn đến tình trạng giám định đi, giám định lại nhiều lần, trả hồ sơ vụ án nhiều lần làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến tiến độ, gây ách tắc trong quá trình giải quyết án, nhiều vụ án sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung yêu cầu giám định, sau khi giám định xác định hàm lượng không còn đủ định lượng để khởi tố, truy tố đã dẫn đến:
 
+ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung để giám định hàm lượng ma túy: Hà Nội 613 vụ; TP Hồ Chí Minh 325 vụ; Lai Châu 119 vụ; Thanh Hóa 83 vụ; Nghệ An 65 vụ; Nam Định 63 vụ; Điện Biên 61 vụ; Sơn La 47 vụ; Bắc Ninh 43 vụ; Đà Nẵng 29 vụ; Lạng Sơn 26 vụ; Vĩnh Phúc 25 vụ; Yên Bái 23 vụ; Hải Phòng 31 vụ; Hải Dương 16 vụ; Tiền Giang 14 vụ…
Tạm đình chỉ điều tra: Sơn La 91 vụ/95 bị can; Thanh Hóa 50 vụ/63 bị can Hải Phòng 13 vụ/13 bị can; Điện Biên 04 vụ/04 bị can… 
 
Đình chỉ điều tra: Bắc Ninh 23 vụ/26 bị can (căn cứ Khoản 1 Điều 25 BLHS); Vĩnh Phúc 09 vụ/09 bị can; Đà Nẵng 04 vụ…
 
Không đủ trọng lượng truy tố và không còn vật chứng là ma túy để giám định hàm lượng: Đăk Lăk 11 vụ; Thừa Thiên – Huế 10 vụ; Đà Nẵng 10 vụ; Yên Bái 04 vụ…
 
Nhiều vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy đã, đang khởi tố, điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử sẽ không cấu thành tội phạm Nam Định có 65 vụ…
 
Nhiều vụ án phải hoãn phiên tòa làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án để chờ ý kiến chỉ đạo của liên ngành: Nam Định 16 vụ; Sơn La 12 vụ…
 
Nhiều vụ phải chuyển khoản truy tố: Hải Phòng 07 vụ/8 bị can; Nam Định 03 vụ…
Xét xử phúc thẩm tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại để giám định hàm lượng ma túy: TP Hồ Chí Minh 08 vụ/11 bị cáo; Đồng Nai 03 vụ/03 bị cáo; Lai Châu 03 vụ/03 bị cáo; Thanh Hóa  02 vụ; Vụ 1C 01 vụ; Sơn La 01 vụ…
 
Đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật và án ma túy đã xét xử sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị thì xử lý thế nào. Đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật nếu áp dụng xác định hàm lượng có thể thay đổi khung, khoản xét xử, mức hình phạt… thì có phải xem xét lại không. Tương tự đối với án ma túy đã xét xử sơ thẩm nay có kháng cáo, kháng nghị thì kết quả giám định hàm lượng cũng có thể làm thay đổi mức hình phạt đối với các bị cáo có xử lý theo hướng giảm hình phạt không. Đối với những bản án đã có hiệu lực pháp luật thi hành thì có được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hay không? Nếu áp dụng pháp luật hồi tố thì những bản án đã được xét xử có hiệu lực pháp luật ở tất cả các cấp (kể từ khi Thông tư 17 có hiệu lực đến nay) phải được xem xét sẽ có khả năng có rất nhiều bị cáo được tuyên không phạm tội, nếu không hồi tố thì dẫn đến pháp luật không công bằng trong các trường hợp bị án đã thi hành án (kể cả án tử hình). Mặt khác, thời gian gần đây, qua thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự nhiều vụ án ma túy, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã hoãn nhiều phiên tòa hoặc hủy nhiều vụ án để điều tra lại với lý do để giám định hàm lượng chất ma túy.
 
Có địa phương, cơ quan Tòa án cho rằng công văn số 234 là chỉ đạo nghiệp vụ của Tòa án cấp trên. Do vậy, Tòa án cấp dưới phải chấp hành thực hiện và phải trả hồ sơ để giám định hàm lượng chất ma túy. Nếu Tòa án thực hiện không đúng theo chỉ đạo tại công văn số 234 tâm lý sợ bị Tòa án cấp trên hủy án ảnh hưởng đến việc xét thi đua hoặc bổ nhiệm lại của thẩm phán. Tại Lai Châu: Tòa án địa phương đã đưa nhiều vụ án ra xét xử và vận dụng cách tính hàm lượng ma túy cụ thể là lấy trọng lượng Hêrôin nhân với hàm lượng Hêrôin chia cho 100 để ra kết quả  Hêrôin tinh chất để tính lượng ma túy phải chịu TNHS. luật sư, văn phòng luật sư, công ty luật, hàng luật, luật sư giỏi
 
Việc giám định hàm lượng chất ma túy hoặc tiền chất ma túy hầu hết các cơ quan giám định ở địa phương chưa đủ điều kiện về con người, phương tiện kỹ thuật, mẫu ma túy chuẩn so sánh để giám định, nếu thực hiện theo hướng dẫn của công văn 234 thì tất cả các vụ án thu được chất ma túy ở địa phương đều phải đưa về Viện khoa học hình sự, Bộ Công an giám định. Việc tổ chức đưa đối tượng cùng tang vật đi giám định, chuẩn bị kinh phí rất phức tạp và tiềm ẩn nhiều bất trắc không an toàn. Việc giám định hàm lượng tại Viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại Hà Nội thường không có kết quả ngay mà phải chờ đợi, dẫn đến việc phê chuẩn bắt khẩn cấp, tạm giữ ban đầu sẽ gặp khó khăn. Theo cơ quan giám định Công an quy định các mẫu nghi ma túy gửi đến giám định phải có đủ từ 0,3 gam trở lên mới đủ điều kiện giám định. Vậy các vụ án mà lượng ma túy thu giữ dưới 0,3 gam sẽ không đủ điều kiện giám định thì xử lý như thế nào. Đối với những vụ án xảy ra trước khi có Công văn 234  vật chứng thu giữ ít dẫn đến mẫu vật giám định ít, dưới 0,1 gam hoặc 0,1 gam đã gửi toàn bộ mẫu vật giám định, không còn mẫu vật nhưng Tòa án vẫn trả hồ sơ yêu cầu giám định hàm lượng thì xử lý như thế nào. Đối với những vụ án truy xét không thu được chất ma túy hoặc các bị can trốn, nay bắt truy nã trong khi đó chất ma túy đã tiêu hủy theo bản án đã có hiệu lực pháp luật thì cũng chưa biết xử lý thế nào? Nhiều nơi do đợi kết quả giám định đã phải gia hạn thời gian điều tra, tạm giam nhiều vụ án/bị can làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. van phong luat su tuy tin
 
Nhiều địa phương cho rằng các trường hợp vướng mắc nêu trên Tòa án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung sau khi có công văn số 234 thì trước đây các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn xử lý và giải quyết các vụ án ma túy đảm bảo đúng pháp luật, không có khiếu kiện gì. Mặt khác, tại TP Hồ Chí Minh việc nhận thức Công văn 234 của Tòa án cũng chưa thống nhất, trong một số vụ án cụ thể như: có Hội đồng xét xử tuyên hủy trả hồ sơ để điều tra lại (yêu cầu giám định hàm lượng). Bên cạnh đó, có Hội đồng tuyên bác kháng cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm (các vụ này trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra chưa giám định hàm lượng ma túy). hang luat uy tin
 
Do vậy, nhiều địa phương, cơ quan Công an, Viện kiểm sát e ngại trong việc bắt, phê chuẩn các đối tượng có hành vi phạm tội về ma túy để xử lý theo quy định của pháp luật, làm giảm tinh thần đấu tranh đối với loại tội phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội. Việc giám định, xác định hàm lượng chất ma túy hiện nay là khó khăn, tốn kém (ít nhiều làm ảnh hưởng tâm lý của những người trực tiếp làm công tác đấu tranh phòng, chống ma túy, nhiều nơi lượng án ma túy khởi tố mới trong Quý I năm 2015 giảm so với cùng kỳ 2014, tại Điện Biên giảm 41 vụ/66 bị can. Số liệu giảm không phải tội phạm ma túy giảm mà do các chiến sỹ ngại không dám bắt các đối tượng phạm tội tàng trữ, vận chuyển số lượng ma túy nhỏ, lẻ.

Giải pháp, kiến nghị luật sư, văn phòng luật sư,

Thứ nhất, đề nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự để khắc phục những khó khăn, vướng mắc nêu trên.
 
Thứ hai, đề nghị lãnh đạo liên ngành pháp luật Trung ương khẩn trương chỉ đạo sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 17 cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống ma túy hiện nay. luật sư, văn phòng luật sư, công ty luật, hàng luật, luật sư giỏi
 
Thứ ba, Công văn số 234 và Thông báo số 264 của riêng ngành Tòa án ban hành nhưng nội dung hướng dẫn đã vượt quá quy định của BLHS hiện hành, ảnh hưởng nghiêm trọng và gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp trong quá trình giải quyết án ma túy. Do đó, đề nghị Ủy ban Tư pháp Quốc hội sớm nghiên cứu trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến chỉ đạo để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nêu trên.

Luật Sư Tư Vấn Đơn Bảo Lĩnh

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

                   ……….., ngày ……tháng……..năm…….

      ĐƠN XIN BẢO LĨNH CHO BỊ CAN

ĐANG BỊ GIAM GIỮ ĐƯỢC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠI NGOẠI



Kính gửi:         TRƯỞNG CÔNG AN TỈNH PLEIKU  VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH PLEIKU  Tôi  tên: ..........................., sinh năm: 1983

CMND:……………………Nghề nghiệp:  Trú tại:Chúng tôi là chồng cuả bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Pleiku bắt tạm giam vì cho có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Pleiku.Nay gia đình tôi làm đơn này kính gửi tới Cơ quan điều tra xin được bảo lĩnh cho bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung được thay đổi biện pháp ngăn chặn từ Tạm giam sang hình thức Tại ngoại vì một số lý do sau:Trình bày một số lý do: bà Nhung nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có hộ khẩu, thường trú rõ ràng, chưa phạm tội lần đầu, chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương, sống hài lòng mọi người, bà Nhung có 2 đứa con nhỏ 1 bé 8 tuổi, sinh năm:………………….., 1 bé 4 tuổi sinh:……………… Hiện nay các bé nhớ mẹ suốt ngày khóc đêm các bé không ngủ được do nhớ mẹ….
Gia đình/Tổ chức chúng tôi xin cam kết sau khi bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung được tại ngoại sẽ:
- Cam đoan không cho đi khỏi nơi cư trú: Giám sát, quản lý mọi hành vi, sinh hoạt của Bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung; Thường xuyên nhắc nhở, giáo dục bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung hiểu biết pháp luật và khai báo thành khẩn.; Đảm bảo bà Nhung sẽ có mặt theo đúng thời gian, địa điểm ghi tron giấy triệu tập mà các cơ quan chức năng ấn định, chấp hành đầy đủ những quy định về tố tụng của pháp luật.Gia đình/Tổ chức chúng tôi cũng xin cam kết với cơ quan công an là sẽ quản lý, giám sát cháu Phượng thường xuyên. Nếu sai chúng tôi xin chịu mọi trách nhiệm kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam và trách nhiệm trước pháp luật.Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ.

                                                                   Ngày….tháng….năm 2018

                                                                             Người bảo lãnh

Xác nhận chữ ký của UBND xã…………..

 

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài Truyền hình HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Thẩm quyền của Tòa án theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Tranh Tụng

Thẩm quyền của Tòa án theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015

Thực tiễn thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2010 cho thấy, mặc dù số lượng các vụ án hành chính ngày càng gia tăng nhưng chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hành chính chưa thực sự bảo đảm; số lượng các bản án, quyết định về vụ án hành chính bị huỷ, sửa chưa giảm mạnh; thời hạn giải quyết, xét xử các vụ án hành chính theo quy định của Luật trong một số trường hợp vẫn còn bị vi phạm. Từ thực tế trên đòi hỏi cần phải có sự sửa đổi, bổ sung đối với Luật Tố tụng hành chính. Vì vậy, ngày 25/11/2015 Quốc hội đã thông qua Luật Tố tụng hành chính năm 2015 với nhiều quy định mới, trong đó có các quy định liên quan đến thẩm quyền của Tòa án. Bài viết được tác giả phân tích, đánh giá dựa trên những điểm mới của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 xoay quanh một số nội dung chính: Những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh; Xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện; Chuyển vụ án cho Tòa án khác và giải quyết tranh chấp về thẩm quyền; Nhập hoặc tách vụ án hành chính…
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp “mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án”[1].
Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính được quy định tại Chương II Luật Tố tụng hành chính năm 2015, gồm có 6 điều (từ Điều 30 đến Điều 35), với nhiều nội dung đã được sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền xét xử của từng cấp Tòa án cho phù hợp với mô hình, tổ chức Tòa án theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; bảo đảm tính khách quan, hiệu quả và khả thi trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, cụ thể là:
1. Những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 ngoài việc tiếp tục kế thừa các quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 về những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thì còn có những sửa đổi, bổ sung sau:
Thứ nhất, điều luật bổ sung quy định loại trừ đối tượng khởi kiện vụ án hành chính (VAHC) đối với quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
Để tăng cường tính minh bạch, công khai, đảm bảo quyền của những người tham gia tố tụng, trong quá trình xây dựng dự án Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi), có ý kiến đề nghị cần mở rộng hơn nữa thẩm quyền của Tòa án đối với khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức, kể cả các quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức (mà không chỉ giới hạn quyết định kỷ luật buộc thôi việc như hiện nay); quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, điều luật đã không mở rộng thẩm quyền của Tòa án đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính này với các lý do:
- Việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án đối với khiếu kiện hành chính về quyết định hành chính và hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức sẽ dẫn tới sự can thiệp quá sâu vào hoạt động quản lý, điều hành và không bảo đảm tính ổn định, tính có trật tự trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của cơ quan, tổ chức.
- Các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án là hành vi vi phạm nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan, tổ chức, gây khó khăn, trở ngại cho Tòa án khi giải quyết các vụ việc, ảnh hưởng đến thời gian, chất lượng, hiệu quả giải quyết vụ việc. Việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng này cần phải được thực hiện nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án giải quyết vụ việc. Mặt khác, nếu đây cũng là đối tượng khởi kiện VAHC thì có nghĩa là Tòa án phải xem xét, phán quyết về quyết định do chính Tòa án ban hành là không khách quan, không khả thi và không phù hợp với thực tiễn.
- Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc thẩm quyền của Tòa án, không thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện, cấp tỉnh như quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính trước đây. Quyết định áp dụng các biện pháp này không phải là quyết định hành chính nên không thuộc đối tượng khởi kiện. Mặt khác, trình tự, thủ tục và thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính này được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân năm 2014; nếu có khiếu nại thì do Tòa án có thẩm quyền phúc thẩm giải quyết.
Thứ hai, thực hiện khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 về việc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật, trong quá trình xây dựng dự án Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi), có ý kiến đề nghị cần luật hóa danh mục các quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn áp dụng, nhiều ý kiến đề nghị không cụ thể hóa mà danh mục này sẽ theo quy định của văn bản pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước. Cho nên, điểm a khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã sửa đổi đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao là “theo quy định của pháp luật” chứ không phải là do Chính phủ quy định như trước đây.
Thứ ba, nhằm mở rộng đối tượng khởi kiện VAHC là “danh sách cử tri trưng cầu ý dân” cho phù hợp với quy định của Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, khoản 4 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã bỏ cụm từ “bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân” ở khoản 2 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và sửa đổi lại là “Khiếu kiện danh sách cử tri”.
2. Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh
So với các quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Điều 31 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung cơ bản để phân định rõ thẩm quyền giải quyết các VAHC giữa Tòa án cấp huyện với Tòa án cấp tỉnh:
Thứ nhất, có sự thay đổi lớn về thẩm quyền giải quyết các VAHC của Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Đó là, đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện thì thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thuộc về Tòa án cấp tỉnh chứ không còn thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện như quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010. Quy định này có ý nghĩa trong việc thúc đẩy dân chủ, công khai, minh bạch nền hành chính; tạo điều kiện để thẩm phán thực hiện tốt nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc thay đổi về thẩm quyền giải quyết này xuất phát từ những lý do sau:
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định tăng thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện, nhưng cần phải có lộ trình thực hiện và phải bảo đảm hiệu quả, chất lượng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013.
- Thực tiễn xét xử các VAHC cho thấy, đa số các khiếu kiện đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, có tính chất phức tạp và việc giải quyết có liên quan đến người bị kiện là người có chức vụ, quyền hạn, nên cần thẩm phán có kiến thức chuyên sâu, có kinh nghiệm và bản lĩnh thì việc giải quyết vụ án mới đạt hiệu quả cao. Việc giải quyết các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính ở cấp huyện hiện nay chưa bảo đảm chất lượng; tỷ lệ án bị hủy, sửa cao.
- Việc giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ khắc phục tình trạng e ngại, nể nang của thẩm phán trong việc xét xử; nếu có kháng cáo, kháng nghị thì sẽ do Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, nên tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử của các thẩm phán sẽ cao hơn, bảo đảm việc giải quyết khách quan, hiệu quả hơn.
- Mặt khác, theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các luật tố tụng mới được ban hành thì Tòa án cấp tỉnh không còn chức năng giám đốc thẩm. Do vậy, việc giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ không gây quá tải về công việc cho Tòa án cấp tỉnh[2].
Để bảo đảm tính khả thi và có lộ trình trong quá trình thi hành các quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính quy định: Kể từ ngày 01/7/2016, đối với những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện đã được Tòa án cấp huyện thụ lý giải quyết trước ngày 01/7/2016 thì Tòa án đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết.
Thứ hai, khoản 8 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định tại Điều 31 của Luật này”. Quy định này đã được hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính (Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP). Theo các nội dung đã được hướng dẫn thì các khiếu kiện sau đây cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh:
- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện mà các thẩm phán của Tòa án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi;
- Vụ án có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
3. Xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện
Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và luật hóa các quy định của pháp luật còn phù hợp, trên cơ sở hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP, Điều 33 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã xác định rõ thẩm quyền của Tòa án giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện VAHC tại Tòa án, cụ thể là:
- Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Tòa án phải yêu cầu người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết và có văn bản thông báo cho Tòa án.
Trường hợp người khởi kiện không thể tự mình làm văn bản thì Tòa án lập biên bản về việc lựa chọn cơ quan giải quyết như sau:
+ Nếu người khởi kiện lựa chọn Tòa án giải quyết thì Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Tòa án;
+ Nếu người khởi kiện lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện.
- Trường hợp nhiều người vừa khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và tất cả những người này đều lựa chọn một trong hai cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì thẩm quyền giải quyết được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
- Trường hợp nhiều người vừa khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, trong đó có người lựa chọn Tòa án giải quyết và có người lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hoặc trường hợp có người chỉ khởi kiện VAHC tại Tòa án có thẩm quyền và người khác chỉ khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết được xác định như sau:
+ Nếu quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại độc lập với nhau thì việc giải quyết yêu cầu của người khởi kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án, còn việc giải quyết khiếu nại của những người khiếu nại thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại;
+ Nếu quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại không độc lập với nhau thì Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Tòa án.
- Trường hợp người khởi kiện không lựa chọn cơ quan giải quyết thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
4. Chuyển vụ án cho Tòa án khác và giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
- Việc chuyển vụ án cho Tòa án khác trong trường hợp Tòa án đã thụ lý VAHC nhưng sau đó phát hiện đây là vụ án khác hoặc thuộc thẩm quyền của Tòa án khác đã được hướng dẫn tại Điều 6 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP. Các nội dung này đã được luật hóa tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, cụ thể là:
+ Trong quá trình giải quyết VAHC theo thủ tục sơ thẩm, Tòa án xác định vụ án đó không phải là VAHC mà là vụ án dân sự và việc giải quyết vụ án này thuộc thẩm quyền của mình, thì Tòa án giải quyết vụ án đó theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định, đồng thời thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
+ Trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà có căn cứ xác định việc giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án khác thì thẩm phán được phân công giải quyết VAHC ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý, đồng thời thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
+ Sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà có căn cứ xác định việc giải quyết VAHC thuộc thẩm quyền của Tòa án khác thì Tòa án phải mở phiên tòa để Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc xét xử, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền.
+ Khi xét xử phúc thẩm VAHC mà xác định vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo quy định của pháp luật.
+ Khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm VAHC mà xác định vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì Tòa án xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo quy định của pháp luật.
- Để thống nhất với các quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về cơ cấu, tổ chức và thẩm quyền của các Tòa án, khoản 7 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết VAHC giữa các Tòa án, cụ thể là:
+ Chánh án Tòa án cấp tỉnh giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết VAHC giữa các Tòa án cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết VAHC giữa các Tòa án cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác nhau; giữa các Tòa án cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao;
+ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác nhau, Tòa án cấp tỉnh thuộc thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ của các Tòa án nhân dân cấp cao khác nhau.
5. Nhập hoặc tách vụ án hành chính
Để tránh việc áp dụng tùy tiện và phù hợp với thực tiễn, trên cơ sở hướng dẫn tại Điều 7 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP, Điều 35 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã quy định cụ thể việc nhập hoặc tách VAHC là:
- Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đã thụ lý riêng biệt thành một vụ án để giải quyết bằng một VAHC khi có đủ các điều kiện sau đây:
+ Các vụ án thụ lý riêng biệt chỉ có một người khởi kiện đối với nhiều quyết định hành chính, hành vi hành chính đều do một cơ quan, tổ chức hoặc một người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức ban hành, thực hiện và có mối liên hệ mật thiết với nhau hoặc các vụ án thụ lý riêng biệt có nhiều người khởi kiện đối với cùng một quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính;
+ Việc nhập hai hay nhiều VAHC thành một VAHC phải bảo đảm việc xét xử được nhanh chóng, hiệu quả, triệt để và không vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử.
- Tòa án tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều VAHC khác nhau để giải quyết trong trường hợp quyết định hành chính bị khởi kiện liên quan đến nhiều người khởi kiện và quyền lợi, nghĩa vụ của những người khởi kiện đó không liên quan với nhau.
Tóm lại, so với Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính. Những sửa đổi, bổ sung này đã cụ thể hóa được các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong công tác giải quyết, xét xử các khiếu kiện hành chính, bảo đảm cho Tòa án thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng hành chính có tính khả thi, minh bạch, công khai, công bằng và thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
TS. Nguyễn Văn Thuân
Tòa án nhân dân tối cao
Nguồn: tạp chí dân chủ và pháp luật

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006