Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư tư vấn bào chữa vụ án hình sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Gây tai nạn giao thông dẫn đến chết người đã bồi thường thiệt hại có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

 

Em tôi gây tai nạn giao thông làm chết người. Gia đình tôi có thăm hỏi và bồi thường 100 triệu đồng, có xác nhận của công an. Như vậy em tôi có bị ra tòa nữa không?

Đề nghị tư vấn:

Em tôi tham gia giao thông gây tai nạn giao thông, người bị tai nạn đã mất, gia đình tôi có thăm hỏi và phụ gia đình người bị tai nạn 20 triệu để lo mai táng. Nay cơ quan công an gọi gia đình chúng tôi lên và yêu cầu phải đóng 80 triệu đồng để giảm nhẹ tình tiết tai nạn, thay mặt gia đình bố tôi đã ký. Có đại diện gia đình người bị nạn và họ cũng cùng đồng ý. Cho tôi hỏi nếu như vậy em tôi có bị ra tòa hay không? Và hình phạt đối với người gây tai nạn là như thế nào?

Trả lời:

1. Đã bồi thường thiệt hại cho nạn nhân thì có bị ra Tòa không?

Để trả lời câu hỏi này của bạn chúng tôi giả sử em bạn đã phạm tội, bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo quy định tại điều 46 Bộ Luật Hình sự, việc gia đình bạn bồi thường thiệt hại cho nạn nhân chỉ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”, giấy tờ bố bạn đã ký chứng minh cho việc bồi thường thiệt hại này. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt chứ không loại trừ trách nhiệm hình sự của em bạn, tức là em bạn vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đã thực hiện hành vi vi phạm.

Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án (Điều 47 BLHS).

Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự (Điều 54 BLHS).

2. Tham gia giao thông gây tai nạn chết người thì mức hình phạt như thế nào?

Khi người tham gia giao thông gây tai nạn dẫn đến chết người, người gây ra tai nạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 202 BLHS về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Đối với tội này, chủ thể thực hiện hành vi phải vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ (ví dụ như phóng nhanh vượt ẩu, đi sai làn đường, …), hành vi vi phạm phải gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.

Như vậy, nếu em bạn không vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, không có lỗi trong vụ việc thì em bạn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này mà chỉ phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Tuy nhiên, có thể thấy rằng cơ quan công an đã yêu cầu gia đình bạn bồi thường thiệt hại nên có thể hiểu em bạn đã có hành vi vi phạm theo Điều 202 BLHS vừa phân tích ở trên (nếu em bạn không vi phạm thì cơ quan công an không có quyền yêu cầu gia đình bạn phải bồi thường cho nạn nhân).

Mức hình phạt cụ thể đối với Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sựvề các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự, thì:

“4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

a. Làm chết một người;

b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

4.2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

a. Làm chết hai người;

b. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

4.3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

a. Làm chết ba người trở lên;

b. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

c. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%;

e. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản được hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

g. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên.”

Do không biết rõ em bạn gây tai nạn ngoài làm chết người còn gây ra thiệt hại nào khác không nên chúng tôi không thể xác định rõ được khung hình phạt đối với hành vi của em bạn. Bởi vậy, bạn có thể đối chiếu quy định trên với hành vi của em bạn và mức thiệt hại thực tế để xét xem em bạn có thể phải chịu hình phạt ở khung nào của Điều 202 BLHS.

LS TRẦN MINH HÙNG CHUYÊN TRẢ LỜI TRUYỀN HÌNH HTV

LS TRẦN MINH HÙNG CHUYÊN TRẢ LỜI TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG

Luật sư tư vấn thời hạn xét xử trong vụ án hình sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Thời hạn giải quyết vụ án hình sự

Theo quy định của Bộ luật hình sự thì người nào giết người thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 93 thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình; phạm tội không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 93 thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

Trường hợp L. và hai người kia đã từng có tiền án, chưa được xóa án tích mà còn phạm tội thì tùy trường hợp sẽ coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật hình sự. Nếu thuộc trường hợp tái phạm thì sẽ bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48. Nếu thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì sẽ bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm” và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 93 của Bộ luật hình sự.

Theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật hình sự thì tội phạm thuộc quy định tại khoản 1 là tội đặc biệt nghiêm trọng; tội phạm thuộc quy định tại khoản 2 là tội rất nghiêm trọng. Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thời hạn giải quyết vụ án hình sự đối với tội đặc biệt nghiêm trọng và rất nghiêm trọng như sau:

- Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự: Theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật tố tụng hình sự thì trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá 02 tháng.

- Thời hạn điều tra: Không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Nếu vụ án có tính chất phức tạp thì có thể được gia hạn thời hạn điều tra 02 lần, mỗi lần không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 03 lần, mỗi lần không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Hết thời hạn điều tra, cơ quan điều tra sẽ ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố.

- Thời hạn truy tố: Trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát sẽ ra bản cáo trạng tuy tố bị can trước Tòa án. Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

- Thời hạn xét xử:

+ Trong thời hạn 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

+ Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn 30 ngày.

Bồi thường thiệt hại

Về quyền và nghĩa vụ của người đại diện của bị hại, theo quy định tại khoản 5 Điều 51 của Bộ luật tố tụng hình sự thì trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền quy định tại Điều 51, cụ thể:

- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

- Được thông báo về kết quả điều tra;

- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

- Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;

- Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại;

- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo.

- Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người đại diện hợp pháp trình bày lời buộc tội tại phiên toà.

- Phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự.

Về mức bồi thường thiệt hại, theo quy định tại Điều 610 của Bộ luật dân sự thì:

- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; Chi phí hợp lý cho việc mai táng; Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

- Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường các thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, như đã nêu ở trên; đồng thời phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

Nếu cháu của bạn (con của con trai bạn) là người chưa thành niên thì người xâm phạm tính mạng con trai bạn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu của bạn.

Trân trọng.

LS TRẦN MINH HÙNG CHUYÊN TRẢ LỜI TRUYỀN HÌNH TPHCM

Quyền thuê nhiều luật sư bào chữa

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Theo qui định của pháp luật Việt Nam hiện nay, trong một vụ án hình sự, nếu bị can bị cáo là người chưa thành niên, hoặc phạm vào những tội bị truy tố đến mức hình phạt cao nhất là chung thân hay tử hình - bắt buộc phải có luật sư. Trường hợp này, nếu bị can bị cáo không tự mình mời/thuê luật sư thì cũng sẽ được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn luật sư cử luật sư bào chữa cho bị can, bị cáo.

Người luật sư khi tham gia vào một vụ án hình sự, làm nhiệm vụ bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo được gọi là “người bào chữa”.

Thực ta, theo điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo hoặc “bào chữa viên nhân dân”. Tuy nhiên, chủ yếu (nếu không muốn nói là tuyệt đối) vẫn là luật sư.

Theo qui định, một luật sư có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều luật sư có thể bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Chính vì qui định này, thỉnh thoảng người ta vẫn thấy có những bị cáo tại tòa có nhiều luật sư bào chữa cho mình.

Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra...

Trân trọng.

LS TRẦN MINH HÙNG

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, các vụi Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư

LS TRẦN MINH HÙNG TRẢ LỜI TRUYỀN HÌNH TPHCM

Yếu tố cấu thành tội đánh bạc là như thế nào?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư tư vấn:

Yếu tố cấu thành tội đánh bạc là như thế nào?

Tội đánh bạc được quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017. Đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp. Đánh bạc được hiểu là nhiều người (ít nhất từ hai người trở lên) cùng tham gia thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật.
- Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội phạm này có một trong các dấu hiệu sau: Có sự thỏa thuận được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên.
Nếu tiền hay hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng thì phải thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 (tội tổ chức đánh bạc) đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội quy định tại Điều 322 (tội tổ chức đánh bạc) chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Lưu ý: Về tiền hoặc hiện vật xác định đưa vào đánh bạc gồm:
– Tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc.
– Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã hoặc sẽ được dùng để đánh bạc
– Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng để đánh bạc
Khách thể: Hành vi phạm tội xâm phạm đến trật tự công cộng.
Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
Chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Cần lưu ý: Việc tham gia hoặc thực hiện đánh bạc bao giờ cũng phải là có nhiều người (có hai người trở lên) cùng thực hiện.

2.2 Đồng phạm là như thế nào?

Theo Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017 thì đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
=> Như vậy, hay nói cách khác, có nghĩa là những người ngồi xem ở đây giữ vai trò là đồng phạm, là người giúp sức, toạ điều kiện về mặt tinh thần cho những người còn lại trực tiếp tham gia đánh bạc, trực tiếp thực hiện tội phạm.

2.3 Căn cứ quyết định hình phạt là như thế nào?

Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ như quy định thì, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.

2.4 Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gì?

Các tình tiết giảm nhẹ bao gồm:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu;
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Người phạm tội tự thú;
- Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
- Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
=> Do đó. những người xem đánh bạc ở đây giữ vai trò với tư cách là đồng phạm trong vụ án đánh bạc, tạo điều kiện về mặt tinh thần cho người thực hành trực tiếp thực hiện tội phạm đánh bạc, đồng thời, những người xem đánh bạc này cũng sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình. đồng thời, khi quyết định hình phạt, cũng sẽ phải dựa trên các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình phạt...
Trân trọng.
LS TRẦN MINH HÙNG CHUYÊN TRẢ LỜI TRUYỀN HÌNH TPHCM

Luật sư chuyên bào chữa trong các vụ án hình sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Quyền được thuê Luật sư bào chữa cho mình trong các vụ án hình sự đã được quy định cụ thể Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và hiến pháp 2013, cụ thể như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc người khác bào chữa”.

Đây là câu hỏi mà nhiều khách hàng, đương sự, bị can, bị cáo còn băn khoăn khi nghĩ tới việc thuê luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự. Đa số đều giống nhau về suy nghĩ khi đặt ra vấn đề thuê luật sư, các câu hỏi thường gặp là:

– Chi phí thuê luật sư như thế nào? Thuê luật sư có tốn kém không?

– Liệu thuê luật sư có đáng tiền không và có nên tin tưởng luật sư hay không?

– Luật sư sẽ làm những gì để giúp mình?

– Kết quả đạt được khi thuê luật sư là như thế nào?

– Thậm chí sợ Luật sư và các cơ quan tố tụng mắc ngoặc nhau?

Và rất nhiều câu hỏi cần lời giải đáp thỏa đáng từ phía khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ Luật sư. Những băn khoăn của khách hàng, đương sự, bị can, bị cáo như trên là hoàn toàn có cơ sở và chính đáng. Thế nhưng, việc suy nghĩ như trên đều xuất phát từ việc chưa hiểu, đánh giá đầy đủ, thỏa đáng và hiểu được vai trò của Luật sư trong các vụ án hình sự. Thực tiễn, vai trò Luật sư hiện nay rất quan trọng trong Tố tụng hình sự, bào chữa cho các bị can/bị cáo, cụ thể như sau:

– Tất cả các bị can/bị cáo, đương sự trong vụ án hình sự không hiểu biết hết về hành vi phạm tội, tính chất mức độ, việc giải quyết của cơ quan tố tụng. Không tự trình bày được các luận điểm hay tranh luận với các cơ quan tiến hành tố tụng.

– Luật sư giúp bị can/bị cáo, người nhà bị can/bị cáo hiểu, nắm bắt được các quy định pháp luật liên quan đến tội danh bị truy cứu trách nhiệm hình sự, các quy trình tố tụng, thời gian, quá trình giải quyết. Giúp cho khách hàng của mình hiểu một cách tổng thể nhất về việc giải quyết vụ án. Tránh tối đa việc tốn kém chi phí không cần thiết, an tâm, suy nghĩ sáng suốt khi giải quyết công việc cho bị can/bị cáo và người nhà.

– Trấn an tinh thần, giúp bị can/bị cáo, người nhà bị can/bị cáo yên tâm, bình tĩnh suy xét, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả pháp lý của các hành vi vi phạm pháp luật mà cơ quan tiến hành tố tụng đang xử lý.

– Giúp cho khách hàng, bị can/bị cáo đưa ra các định hướng, phương pháp khắc phục hậu quả, thu thập các tài liệu, chứng cứ minh oan, giảm nhẹ hình phạt hoặc tìm ra sự thật khách quan của vụ án.

– Gặp gỡ, kiến nghị, đấu tranh với các cơ quan tố tụng để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, các tình tiết, hồ sơ, hành vi, diễn biến hành vi phạm tội. Để cơ quan tiến hành tố tụng có cách nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện, chính xác nội dung vụ án, tránh tình trạng oan, sai, xử quá nặng cho các bị can/bị cáo.

– Trong trường hợp bị can/bị cáo bị tạm giam, Luật sư sẽ gặp trực tiếp bị can/bị cáo trong trại tạm giam hoặc phối kết hợp với cơ quan tiến hành tố tụng hỏi cung để làm sáng tỏ sự thật khách quan vụ án.

– Trực tiếp bào chữa cho bị can/bị cáo tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Luật sư đưa ra luận cứ, luận điểm, đấu tranh với Hội đồng xét xử, Viện kiểm sát.

Đối với vụ án hình sự, Luật sư càng vào sớm sẽ có tác dụng trong việc chứng minh sự thật khách quan khi hồ sơ chưa bị khép, cơ quan điều tra đang chứng minh, làm sáng tỏ tình tiết, hành vi, nội dung vụ án. Hạn chế tối đa nhất việc oan, sai hoặc áp dụng hình phạt quá nặng trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Điều quan trọng giúp cho bị can/bị cáo và người nhà tránh tối đa lãng phí chi phí không cần thiết và đạt được hiệu quả tối đa trong khi giải quyết công việc.

Những ai có quyền bào chữa trong các vụ án hình sự?

– Theo Khoản 1, Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa có thể là: Luật sư, Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ và Bào chữa viên nhân dân. Tuy nhiên, thực tế trong các vụ án hình sự thì người có quyền bào chữa là Luật sư khi được bị can/bị cáo hoặc người nhà mời và được chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng.

– Để cụ thể hóa các  quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa thì Khoản 2 Điều 58 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định quyền của Luật sư như sau:

a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của BLTT Hình sự....

Trân trọng.

LS TRẦN MINH HÙNG

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006