Luật Sư Thừa Kế

Luật sư bào chữa tiền phúng viếng có phải là di sản thừa kế?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Thừa Kế

1. Tiền phúng viếng có phải là di sản thừa kế không?

Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại cho người còn sống. Theo quy định tại Điều 634“Bộ luật dân sự năm 2015” thì:

“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác”.

Di sản thừa kế là tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản khi còn sống. Tài sản theo quy định tại Điều 163 “Bộ luật dân sự 2015”:

“Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.

Thành phần di sản bao gồm các loại tài sản khác nhau và không bị hạn chế về số lượng, giá trị.

Tài sản riêng của người chết được xác định khi người đó còn sống, có quyền sở hữu tài sản của mình một cách độc lập và tự do chiếm hữu, sử dụng, định đoạt theo ý chí của mình mà không lệ thuộc theo ý chỉ của chủ thể khác trên cơ sở tuân theo các quy định của pháp luật. Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác bao gồm: người chết là đồng sở hữu chung hợp nhất tài sản chung với vợ hoặc chồng; người chết là sở hữu chung hợp nhất theo phần đối với tài sản chung với người khác. Các quyền tài sản khác của người chết để lại là di sản thừa kế gồm quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, các khoản tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ phát lý khác,… là di sản thừa kế của người đó. Quyền sở hữu cá nhân là cơ sở chủ yếu để xác định di sản thừa kế của các nhân sau khi qua đời. Những loại tài sản này mà một ngời khi còn sống có quyền sở hữu và khi người đó chết thì những tài sản này là di sản thừa kế, được đem chia thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Trong trường hợp nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại lớn hơn hoặc ngang bằng với giá trị di sản của nguười này để lại thì khi đó không còn di sản để chia thừa kế.

Về bản chất, tiền mai táng phí là một khoản tiền thuộc quyền sở hữu của người chết. Đó là một loại tài sản được xác định (tiền VND) nên hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu là di sản thừa kế. Khoản tiền này tồn tại nhưng không xuất hiện khi người đó còn sống mà chỉ xuất hiện khi người đó chết để chi trả cho việc làm lễ mai táng của người đó: mua quan tài, đèn, hương, vòng hoa, làm cỗ,…với mục đích là chia buồn cùng tang gia.

Trong đa số các trường hợp, khoản tiền hỗ trợ mai táng phí sẽ được dùng hết và không còn để chia thừa kế nhưng về bản chất nó vẫn là di sản thừa kế.

Thông thường, khi một người chết thì thân nhân hoặc tổ chức xã hội sẽ đứng ra làm lễ mai táng. Số tiền trợ cấp mai táng này sẽ được ưu tiên đầu tiên chi trả cho người trực tiếp bỏ chi phí đứng ra tổ chức lễ mai táng sau đó. Trong trường hợp người chết để đã lại một phần tài sản dùng để mai táng hoặc dùng không hết số tiền hỗ trợ mai táng thì tiền mai táng sẽ được dùng để thực hiện các nghĩa vụ tài sản khác. Sau được dùng để thực hiện hết các nghĩa vụ tài sản của người chết mà vẫn còn thì số tiền hỗ trợ mai táng đó có thể được đem ra để chia thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Tiền mai táng phí được Nhà nước hỗ trợ theo trình tự, thủ tục nhất định và người còn sống hoàn toàn có thể xác lập quyền sở hữu của mình đối với khối tài sản này. Chẳng hạn, nếu người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 60 tháng trở lên mà mất sẽ được nhận trợ cấp mai táng. Trong trường hợp như vậy, người còn sống hoàn toàn có căn cứ xác lập quyền sở hữu với tài sản này, có thể định đoạt số tài sản này sau khi chết nên chi phí mai táng hoàn có thể trở thành di sản thừa kế theo Điều 634 của “Bộ luật dân sự năm 2015”.

2. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người đã mất để lại?

Luật sư cho hỏi về nghĩa vụ của người chết để lại xử lý thến nào, cụ thể như sau: Mẹ tôi là giáo viên đã về hưu mới mất ngày 4/8/2016. Mẹ tôi được tiền tử tuất, chế độ cấp 1 lần đã có quyết định của bhxh là 216.484.400 đồng. Khi còn sống mẹ tôi có vay tiền theo lương hưu số tiền còn lại là 118.000.000đ. Tiền vay này có bảo hiểm tiền vay 100%.

Khi tôi đến bưu điện nhận tiền thì nhân viên ở đây không cho tôi lĩnh hết tiền tử tuất và chế độ của mẹ tôi, mà đòi trừ vào số tiền 118tr kia đến bao giờ bảo hiểm chi trả mới giả cho tôi. Tôi không đồng ý và ra về. Ngoài ra hôm sau nhân viên ngân hàng Liên Việt còn gọi điện bảo tôi nếu không khấu trừ tôi sẽ phải tiếp tục chịu tiền lãi vay trong khi mẹ tôi đã mất. Như thế có đúng quy định của pháp luật không?

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới Văn Phòng Luật Sư Gia Đình, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Theo thông tin bạn cung cấp thì chúng tôi hiểu rằng thời điểm mẹ bạn còn sống đã dùng sổ bảo hiểm của mình thế chấp để làm tài sản bảo đảm cho hợp đồng vay với phía Ngân hàng Liên Việt. Nhưng chưa hoàn tất nghĩa vụ hoàn trả số tiền vay cho phía ngân hàng thì mẹ bạn mất - hợp đồng vay chấm dứt.

Tuy nhiên, trường hợp mẹ bạn có di sản để lại thì những người thừa kế hợp pháp theo pháp luật đối với phần di sản đó vẫn sẽ có nghĩa vụ trách nhiệm trả nợ thay trong phạm vi di sản để lại (di sản mẹ bạn là khoản tiền bảo hiểm - chế độ tử tuất tương ứng 216.484.400 và số nợ là 118 triệu). Cụ thể, Bộ luật dân sự năm 2015:

Điều 372. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ dân sự

Nghĩa vụ dân sự chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

....

8. Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân, chủ thể khác chấm dứt mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân, chủ thể đó thực hiện;

Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.

3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

Đồng thời, Bộ luật Dân sự 2015 cũng có quy định:

Điều 318. Tài sản thế chấp

4. Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

Trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và bên thế chấp có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận thế chấp.

Điều 323. Quyền của bên nhận thế chấp tài sản

....

5. Yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý khi bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

Như vậy, trong trường hợp của mẹ nếu hợp đồng có nội dung, điều khoản liên quan tới xử lý tài sản bảo đảm khi chấm dứt hợp đồng. Đồng thời, bên ngân hàng có thông báo tới tổ chức bảo hiểm về tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì đương nhiên khi mẹ bạn mất phía bên ngân hàng có quyền thực hiện khấu trừ khoản nợ 118 triệu từ tiền chế độ bảo hiểm tử tuất mà mẹ bạn được thanh toán sang. Trường hợp, không khấu trừ thì gia đình (những người thừa hưởng di sản này) có nghĩa vụ phải nộp tiền lãi tương ứng với khoản vay trên. Do đó, yêu cầu từ phía bên ngân hàng đưa ra là hợp lý.

3. Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là bao lâu?

Chào luật sư, bố mẹ tôi mất vào năm 2000 và 2002, khi mất bố mẹ tôi có để lại phần di sản là 1 miếng đất thuộc sở hữu của hai người mà không ai để lại di chúc gì cả, miếng đất này có nhà và trước giờ giao cho anh cả tôi ở và thờ cúng . Gia đình tôi chưa bao giờ họp để phân chia di sản này mà cứ để đó. Nay anh tôi muốn bán đất nên các anh em khác không đồng ý dẫn đến tranh chấp không thể hòa giải được. Tôi nghe nói, thời hiệu khởi kiện chia thừa kế là 10 năm, hiện nay đã hết thời hiệu rồi thì không có quyền khởi kiện nữa.

Vậy chúng tôi phải làm thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ?

Luật sư tư vấn:

Dựa trên quy định tại điều 623 của Bộ luật dân sự 2015

Điều 623. Thời hiệu thừa kế

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Như vậy thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế đối với bất động sản là 30 năm kể từ ngày bố bạn mất. Như vậy trong trường hợp này anh chị em nhà bạn vẫn có quyền yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế theo quy định pháp luật.

CCHC6

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)

5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)

68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958

Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

http://www.luatsugiadinh.net. vn

http://www.luatsuthanhpho.com

Luật sư tư vấn quyền thừa kế của con trai, con gái

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Thừa Kế

1. Tư vấn về quyền thừa kế của con trai, con gái

Hỏi: Luật sư cho tôi hỏi về quyền thừa kế của con trai và con gái như sau: Ông bác tôi chết cách đây ba năm, Vợ bác mất cuối năm 2005. Ông bà để lại một căn nhà nhưng không có di chúc. Ông bà có năm người con, hai trai, ba gái. Do đã có nhà ở riêng nên các con của ông bà đã thống nhất bán căn nhà đó. Khi bàn bạc để phân chia số tiền bán nhà thì phát sinh mâu thuẫn

Các anh con trai của ông bà cho rằng, các cô con gái đã đi lấy chồng thì phải hưởng theo nhà chồng nên số tiền bán nhà của ông bà sẽ chia làm ba phần. Mỗi anh con trai được hưởng một phần, phần còn lại chia cho 3 cô con gái. Ba người con gái của ông bà không đồng ý cách chia đó nên tìm mọi cách để không cho hai người anh bán căn nhà. quy định của pháp luật về việc này như thế nào? Mong luật sư tư vấn cho chúng tôi.

Trả lời: Theo như lời bạn trình bày thì, vợ chồng bác bạn đều đã mất và có để lại một căn nhà nhưng không có di chúc. Theo quy định của pháp luật thì nếu không có di chúc, di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật (Điều 651Bộ luật dân sự 2015).

Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luât, cụ thể:

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Khi vợ chồng bác bạn qua đời mà không có di chúc thì người được quyền hưởng di sản là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức là “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;” Chỉ khi hàng thừa kế thứ nhất không còn ai, không có quyền hưởng, bị truất quyền hay từ chối nhận di sản thì hàng thừa kế sau mới được hưởng. Với thông tin bạn cung cấp thì bác bạn có năm người con, nếu không còn ai khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất thì năm người này được quyền hưởng di sản thừa kế do bố mẹ để lại.

Như vậy, những người thừa kế còn lại được xác định là năm người con gồm hai người con trai, ba người con gái. Và theo quy định của pháp luật “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.” (khoản 2 Điều 651 BLDS 2015) nên mỗi người thừa kế, không phân biệt là nam hay nữ đều có quyền hưởng một phần di sản thừa kế ngang bằng với những người thừa kế khác. Trường hợp này những người con gái có thể khởi kiện ra tòa án để yêu cầu chia thừa kế do bố mẹ để lại.

2. Có thực hiện được di chúc chung khi 1 người còn sống?

Câu hỏi 1:

Ngay từ khi còn sống bố mẹ em đã viết di chúc chung và đã được công chứng. Trong di chúc ghi rõ bố mẹ để lại cho các con bao nhiêu và mỗi người được bao nhiêu phần. Di chúc có hiệu lực khi cả 2 bố mẹ mất. Nhưng này bố em đã mất còn mẹ em thì cũng đã già yêu nên muốn thực hiện luôn di chúc của 2 người. Khi hỏi cán bộ tư pháp huyện về việc thực hiện di chúc thì họ bảo là không thực hiện được khi mẹ em chưa mất. Vậy cho em hỏi liệu nhà em có thực hiện được di chúc không ? và nếu không thực hiện được khi mẹ em còn sống thì có cách nào để thực hiện được không ạ ?

Vấn đề bạn hỏi, chúng tôi trả lời như sau:

Điều 664 Bộ luật dân sự quy định : Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng

1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.

2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.

Điều 668: Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng

Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.

Như vậy, khi mẹ bạn còn sống thì không thể thực hiện luôn di chúc.

Để thực hiện việc chia đất luôn thì mẹ bạn có thể sửa đổi di chúc phần liên quan đến tài sản của mình với nội dung mẹ bạn sẽ không định đoạt phần tài sản của mình trong di chúc nữa. Sau đó mẹ bạn sẽ định đoạt phần tài sản của minh theo hình thức: chuyển nhượng, tặng cho.

Khi đó, phần tài sản của bố bạn sẽ được phân chia theo di chúc, còn phần tại sản của mẹ bạn sẽ được thực hiện theo hình thức mà mẹ bạn lựa chọn như đã nêu ở trên.

Tuy nhiên, do ý nguyện của mẹ bạn cũng không có gì thay đổi so với nội dung của di chúc nên để tránh phải thực hiện nhiều thủ tục thì không nên sửa đổi di chúc. Sau khi mẹ bạn mất thì tài sản của bố mẹ bạn sẽ được chia theo di chúc (nếu di chúc hợp pháp) Vấn đề bạn hỏi, chúng tôi trả lời như sau:

Điều 664 Bộ luật dân sự quy định : Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng

1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.

2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.

Điều 668: Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng

Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.

Như vậy, khi mẹ bạn còn sống thì không thể thực hiện luôn di chúc.

Để thực hiện việc chia đất luôn thì mẹ bạn có thể sửa đổi di chúc phần liên quan đến tài sản của mình với nội dung mẹ bạn sẽ không định đoạt phần tài sản của mình trong di chúc nữa. Sau đó mẹ bạn sẽ định đoạt phần tài sản của minh theo hình thức: chuyển nhượng, tặng cho.

Khi đó, phần tài sản của bố bạn sẽ được phân chia theo di chúc, còn phần tại sản của mẹ bạn sẽ được thực hiện theo hình thức mà mẹ bạn lựa chọn như đã nêu ở trên.

Tuy nhiên, do ý nguyện của mẹ bạn cũng không có gì thay đổi so với nội dung của di chúc nên để tránh phải thực hiện nhiều thủ tục thì không nên sửa đổi di chúc. Sau khi mẹ bạn mất thì tài sản của bố mẹ bạn sẽ được chia theo di chúc (nếu di chúc hợp pháp)

ANTV1

 

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)

5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)

68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958

Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

http://www.luatsugiadinh.net. vn

http://www.luatsuthanhpho.com

Luật sư tranh tụng thiếu giấy chứng tử có làm được di sản thừa kế?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Thừa Kế

1. Thiếu giấy chứng tử thì thủ tục khai nhận thừa kế như thế nào?

Câu hỏi:

Cha mẹ của mẹ tôi (ông bà ngoại của tôi) đã mất mà không có giấy chứng tử và cũng không biết có giấy chứng tử hay không (nếu tính tuổi sinh của ông bà ngoại tôi thì đến nay đã khoảng 150 tuối). Sau này mẹ tôi mất không để lại di chúc.

Nay gia đình tôi muốn làm thủ tục để nhận di sản thừa kế phần đất của mẹ tôi, thửa đất đã có Sổ đỏ do bố mẹ tôi cùng đứng tên.

Xin hỏi làm thế nào để gia đình tôi thực hiện được thủ tục khai nhận di sản thừa kế như thế nào?

Luật sư Gia Đình tư vấn:

Theo thông tin bạn cung cấp: Thửa đất đứng tên quyền sử dụng đất của bố mẹ bạn nên căn cứ theo quy định tại Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình 2014, thửa đất được xác định là tài sản chung của bố mẹ bạn.

Chính vì thế khi mẹ bạn mất thì 1/2 thửa đất thuộc phần di sản thừa kế của mẹ bạn còn bố bạn chỉ có quyền quyết định đối với 1/2 thửa đất còn lại.

1. Phân chia di sản:

Chính vì thế khi mẹ bạn mất thì 1/2 thửa đất thuộc phần di sản thừa kế của mẹ bạn còn bố bạn chỉ có quyền quyết định đối với 1/2 thửa đất còn lại.

Đối với 1/2 thửa đất là di sản thừa kế của mẹ bạn:

Căn cứ theo quy định của pháp luật Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015:

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.”

Như vậy, khi mẹ bạn mất thì di sản thừa kế của mẹ bạn sẽ được chia cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: bố bạn, ông bà ngoại của bạn và bạn. Mỗi người thuộc hàng thừa kế này đều được chia những phần thừa kế bằng nhau.

2. Thủ tục thực hiện khai nhận di sản thừa kế:

Không có chứng tử của ông bà để nhận đất thừa kế

Do đó nếu gia đình bạn muốn làm thủ tục nhận di sản thừa kế thì gia đình bạn cần chứng minh những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức là bạn phải chứng minh ông bà ngoại của bạn đã mất trước thời điểm mẹ bạn mất.

Chính vì thế việc cơ quan nhà nước yêu cầu bạn phải nộp giấy chứng tử của mẹ bạn và ông ngoại của bạn là đúng quy định của pháp luật.

– Nếu như ông bà ngoại bạn mất mà không có giấy tờ chứng minh thì bạn có thể đến UBND xã để xin trích lục khai tử của ông bà bạn và nộp cho cơ quan nhà nước.

– Tuy nhiên, vì ông bà ngoại mất vào thời kỳ chiến tranh… và hầu như không có khả năng nào để chứng minh người này còn sống nếu xét về tuổi tác, nên những người nhận thừa kế có thể làm văn bản cam kết với nội dung người cha vợ đã chết trước thời điểm người vợ chết, và hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu có tranh chấp xảy ra. giấy xác nhận ông bà đã mất

– Ngoài ra, việc chứng minh người cha vợ đã chết trước có thể được chấp nhận bằng các giấy tờ khác, chẳng hạn: văn bản xác nhận của UBND phường, công an khu vực về việc người đó đã chết, xác nhận của những người sống trong khu vực là người cao tuổi có biết hoặc chứng kiến về cái chết của người cha vợ trước kia…

2. Không có giấy khai sinh có được nhận di sản thừa kế

Câu hỏi:

ông bà nội đang là người đứng tên trong sổ đỏ, ông nội hiện đã mất, ông bà gồm có 4 người con, những người này đều không có giấy khai sinh, ba em là con út cũng đã mất. Giờ bà nội cho e căn nhà, nếu em muốn đúng tên chủ sở huu74 căn nhà thì em phải làm sao. có phải cả 3 người con của ông bà nội phải ra công chứng để ký không nhận thừa kế thì lúc đó bà nội mới toàn quyền định đoạt nhường quyền thừa kế lại cho em. em còn có 1ngươi chi và một nguoi em gái, cả hai nguoi này cũng phải ra ký tên không?xin luật sư tư vấn giúp em.

Trả lời:

Chào bạn,

Căn cứ khoản 2 điều 5 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 có quy định thì giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân, mọi hồ sơ, giấy tờ của mỗi cá nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, quê quán, quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với giấy khai sinh của người đó.

Trong trường hợp của bạn nếu như những người con của ông bà nội của bạn khi sinh ra đều không đăng ký giấy khai sinh thì không thể xác định quan hệ nhân thân với ông bà nội của bạn được. Do vậy khi ông nội của bạn mất thì di sản mà ông nội của bạn để lại sẽ thuộc về bà nội của bạn. Bà nội có quyền tự định đoạt tài sản đó, không nhất thiết phải có sự đồng ý của những người khác.

3. Mẫu văn bản khai nhận di sản thừa kế mới nhất năm 2021

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

VĂN BẢN KHAI NHẬN DI SẢN

Hôm nay, trước mặt Công chứng viên Văn phòng Công chứng ĐK, thành phố Hà Nội, tôi thực hiện việc khai nhận di sản với những nội dung như sau:

ĐIỂU 1. NGƯỜI KHAI NHẬN DI SẢN

1.1) Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1949, Chứng minh nhân dân số 123456789 do Công an thành phố Hà Nội cấp ngày 22/11/2014, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Xóm X, thôn A, xã K, huyện P, thành phố Hà Nội

1.2) Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1953, Chứng minh nhân dân số 02345640 do Cục cảnh sát ĐKQL và DLQG về dân cư cấp ngày 05/07/2015, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Xóm X, thôn A, xã K, huyện P, thành phố Hà Nội ;

1.3) Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1978, Chứng minh nhân dân số 023456799 do Cục cảnh sát ĐKQL và DLQG về dân cư cấp ngày 18/01/2015, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Xóm X, thôn A, xã K, huyện P, thành phố Hà Nội

1.4) Cháu Nguyễn Văn D, sinh năm 2014, Giấy khai sinh số 56/2013, quyển số 02/2013 do Ủy ban nhân dân xã K, huyện P, thành phố Hà Nội sao từ sổ đăng ký khai sinh ngày 05/03/2013, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Xóm X, thôn A, xã K, huyện P, thành phố Hà Nội

1.5) Cháu Nguyễn Văn K, sinh năm 2016, Giấy khai sinh số 33/2016, quyển số 02/2016 do Ủy ban nhân dân Xóm X, thôn A, xã K, huyện P, thành phố Hà Nội sao từ sổ đăng ký khai sinh ngày 19/11/2016, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Xóm X, thôn A, xã K, huyện P, thành phố Hà Nội

Đại diện cho cháu Nguyễn Văn D và cháu Nguyễn Văn K trong việc lập và ký Văn bản này là mẹ đẻ của hai cháu – bà Nguyễn Thị T.

Bà Nguyễn Thị T có thông tin về nhân thân như trên.

ĐIỀU 2. NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN

- Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1968, chết ngày 15/02/2014, theo Giấy chứng tử số: 19/2014, Quyển số 01/2014 sao từ Sổ đăng ký khai tử do Uỷ ban nhân dân xã K, huyện P, thành phố Hà Nội cấp ngày 06/03/2014. Nơi thường trú cuối cùng trước khi chết: thôn A, xã K, huyện P, thành phố Hà Nội

- Trước khi chết ông Nguyễn Văn P không để lại Di chúc, không để lại bất kỳ nghĩa vụ tài sản nào mà những người thừa kế của ông Nguyễn Văn P phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

- Tính đến thời điểm mở thừa kế ông Nguyễn Văn P không phải trả nợ cho bất cứ cá nhân, tổ chức nào.

ĐIỀU 3. DI SẢN ĐỂ LẠI

* Di sản mà ông Nguyễn Văn P để lại là một phần quyền sử dụng đất trong khối tài sản chung với hộ ông Nguyễn Văn P, tại địa chỉ: thôn A, xã K, huyện P, thành phố Hà Nội như mô tả cụ thể dưới đây:

- Thửa đất số: 345, tờ bản đồ số: 01;

- Địa chỉ thửa đất: thôn A, xã K, huyện P, thành phố Hà Nội;

- Diện tích: 93 m2 (bằng chữ: Chín mươi ba mét vuông);

- Hình thức sử dụng:

Sử dụng riêng: 93 m2;

Sử dụng chung: Không m2;

- Mục đích sử dụng: Đất ở tại nông thôn;

- Thời hạn sử dụng: Lâu dài;

- Nguồn gốc sử dụng đất: Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất;

Giấy tờ về tài sản: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” số AN 012345 do Ủy ban nhân dân huyện P, thành phố Hà Nội cấp ngày 01/01/2008, Số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: H 0012234 mang tên Hộ ông: Nguyễn Văn P.

Tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận nêu trên, hộ ông Nguyễn Văn P gồm có 04 (bốn) nhân khẩu, là các ông ( ông Nguyễn Văn PNguyễn Văn ANguyễn Thị CNguyễn Thị T. Như vậy, di sản mà ông Nguyễn Văn P để lại là quyền sử dụng một phần diện tích đất tương đương với 23,25 m2.

ĐIỀU 4. NGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN

Những người thừa kế theo pháp luật hàng thứ nhất của ông Nguyễn Văn P gồm có:

4.1. Ông Nguyễn Văn A – Là bố đẻ của ông Nguyễn Văn P;

4.2. Bà Nguyễn Thị C – Là mẹ đẻ của ông Nguyễn Văn P;

4.3.Bà Nguyễn Thị T – Là vợ của ông Nguyễn Văn P;

4.4. Cháu Nguyễn Văn D – Là con đẻ của ông Nguyễn Văn P;

4.5. Cháu Nguyễn Văn K – Là con đẻ của ông Nguyễn Văn P;

- Tất cả chúng tôi có số Chứng minh và hộ khẩu thường trú như đã nêu tại phần trên của Văn bản này.

- Ngoài vợ và 02 (hai) người con đẻ nêu trên, ông Nguyễn Văn P không có người vợ, người con đẻ nào khác. Ông Nguyễn Văn P không có con nuôi.

- Ông Nguyễn Văn P không có bố nuôi, mẹ nuôi.

- Không người nào trong số những người hưởng thừa kế nêu trên không được quyền hưởng di sản của ông Nguyễn Văn P để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế. Đến thời điểm chúng tôi lập và ký Văn bản khai nhận di sản này không có ai từ chối nhận di sản.

- Chúng tôi xin cam đoan những điều chúng tôi khai trong Văn bản này là hoàn toàn đúng sự thật. Chúng tôi không khai thiếu người thừa kế và không khai man người thừa kế. Nếu sai hoặc sau này còn có ai khác khiếu nại và chứng minh được họ là chủ sử dụng hợp pháp đối với di sản của ông Nguyễn Văn P hoặc là người thừa kế hợp pháp của ông Nguyễn Văn P thì chúng tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật và xin đem tài sản của mình ra để đảm bảo cho lời khai này.

ĐIỀU 5. KHAI NHẬN DI SẢN

- Bằng văn bản này chúng tôi: Nguyễn Văn A, Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị T, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn K khẳng định là những người được hưởng di sản của ông Nguyễn Văn P để lại. Mỗi người được hưởng phần di sản tương đương với 4,65 m2.

- Chúng tôi: Nguyễn Văn A, Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị T, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn K đồng ý nhận phần di sản mà mình được hưởng.

Chúng tôi: Nguyễn Văn A, Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị T, Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn K sẽ thực hiện thủ tục đăng ký sang tên quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nêu trên theo quy định của pháp luật.

ĐIỀU 6. CAM KẾT

Chúng tôi cam kết rằng: Khi lập văn vản này chúng tôi không che dấu người thừa kế, nếu sau này có ai chứng minh được là họ người thừa kế hợp pháp của người để lại di sản thì chúng tôi dùng tài sản của mình để trả cho người đó kỷ phần mà họ được hưởng theo đúng quy định của pháp luật. Tôi đã được Công chứng viên giải thích kỹ về toàn bộ nội dung của Văn bản, quyền và nghĩa vụ của những người hưởng di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế; Sau khi tự đọc lại toàn bộ nội dung Văn bản khai nhận di sản này, tôi công nhận đã hiểu rõ, đồng ý hoàn toàn nội dung của Văn bản. Tôi đều nhận thức rõ được trách nhiệm của mình trước pháp luật khi lập và ký Văn khai nhận di sản này. Tôi đã ký tên và điểm chỉ theo quy định của pháp luật dưới đây để làm bằng chứng thực hiện.

NHỮNG NGƯỜI KHAI NHẬN DI SẢN

LỜI CHỨNG CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN

Hôm nay, ngày …………………………………………………………………

Tại trụ sở Văn phòng Công chứng ĐK, huyện P, thành phố Hà Nội

Tôi - Nguyễn Văn Q, Công chứng viên Văn phòng Công chứng ĐK, thành phố Hà Nội

Chứng nhận

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

SỐ CÔNG CHỨNG: ................ / ……/VBKNDS Quyển số ……

CÔNG CHỨNG VIÊN

HTV XANH 2

 

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)

5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)

68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958

Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

http://www.luatsugiadinh.net. vn

http://www.luatsuthanhpho.com

Luật sư tư vấn Con chết trước, cha mẹ có được hưởng thừa kế?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Thừa Kế

1. Con dâu có được hưởng thừa kế thế vị không?

Câu hỏi:

Cha tôi có 2 căn nhà chưa có chủ quyền, 1 căn cha ở chung với 4 anh chi em, 1 căn cha cho tôi nhưng chỉ cho bằng miệng. Còn 1 người anh đã lập gia đình và ở riêng. Anh tôi mất trước cha tôi khoảng 10 năm. Cha tôi mất không làm di chúc hay giấy tờ thừa kế nào. Vậy vợ anh tôi có được hưởng thừa kế 2 căn nhà trên không.

Trả lời tư vấn:

Với trường hợp của bạn chúng tôi xin tư vấn như sau:

Để chia thừa kế di sản của cha bạn để lại thì cần xác định được di sản gồm những tài sản nào. Do thông tin bạn đưa ra chưa thực sự rõ ràng nên giả thiết 2 trường hợp như sau:

Trường hợp 1: Nếu 2 căn nhà trên mà không thuộc quyền sở hữu của cha bạn tức là cha bạn không có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì 2 căn nhà trên không phải di sản của cha bạn và không được đem ra chia thừa kế.

Trường hợp 2: 2 căn nhà thuộc sở hữu của cha bạn đồng nghĩa với việc 2 căn nhà là di sản để chia thừa kế.

Thứ nhất, hợp đồng tặng cho ngôi nhà giữa cha bạn và bạn không có hiệu lực pháp lý. Do hợp đồng tặng cho bất động sản (quyền sử dụng đất gắn liền với quyền sở hữu nhà ở) pháp luật quy định phải được lập bằng văn bản và có công chứng chứng thực. Vậy nên, hợp đồng này sẽ vô hiệu, và các bên sẽ trả lại cho nhau những gì đã nhận. Như vậy 2 ngôi nhà trên là vẫn là di sản thừa kế của cha bạn.

Thứ hai, cha bạn mất không để lại di chúc, vì vậy di sản thừa kế được chia theo pháp luật.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 thì những người thuộc diện thừa kế trước tiên là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”

Và căn cứ vào Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2015:

“Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống..” .

Như vậy, trường hợp anh trai của bạn chết trước cha bạn - người để lại di sản thừa kế thì các con của anh trai bạn sẽ được nhận phần di sản mà anh bạn đáng lẽ được hưởng. Vợ của anh bạn không thuộc diện thừa kế thứ nhất cũng không phải đối tượng được nhận phần thừa kế mà anh bạn đáng lẽ được hưởng.

Vậy nên, vợ của anh bạn không được hưởng thừa kế 2 căn nhà trên.

2. Con chết trước, cha mẹ có được hưởng thừa kế không?

Câu hỏi:

"Vợ chồng tôi có dựng nhà trên diện tích đất của ông bà để lại. Tôi đã chuyển quyền sử dụng đất đó cho con trai tôi ở cùng trong hộ đứng tên, với trách nhiệm chăm sóc tôi lúc về già, nhưng con trai tôi không may mất sớm. Hiện tại, con dâu tôi đang làm hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất từ chồng sang tên mình nhưng không nhận trách nhiệm lo cho tôi được. Như vậy, tôi có quyền phản đối để xin chuyển quyền sử dụng đất qua tôi được không? Nhờ luật sư tư vấn giúp, tôi xin cảm ơn!"

Trả lời:

Cảm ơn bác đã tin tưởng gửi yêu cầu tư vấn cho Luật sư chúng tôi, sau đây chúng tôi xin tư vấn trường hợp của bác như sau:

Theo thông tin bác cung cấp năm 2004 vợ chồng bác đã làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất sang cho người con trai, do đó phần đất này đã thuộc quyền sở hữu của con trai bác, và trở thành di sản thừa kế khi con trai bác mất.

Con dâu bác sẽ không có quyền chuyển quyền sở hữu toàn bộ quyền sử dụng đất sang tên mình, vì những lý do sau đây:

Thứ nhất: Nếu con trai bác có để lại di chúc hợp pháp (theo Điều 630 Bộ luật dân sự 2015). Khi đó nếu di chúc có để lại di sản cho bác thì bác sẽ nhận được phần di sản theo nội dung di chúc ( thừa kế theo di chúc).

Ngoài ra, Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc như sau:

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại điều 624 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 điều 634 của bộ luật này

+ Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

+ Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.

Dựa theo quy định trên thì trong trường hợp con trai bác để lại di chúc, nếu bác không được con trai mình cho hưởng di sản theo di chúc thì theo quy định tại điều 644 Bộ luật dân sự, bác vẫn sẽ được hưởng di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật.

Thứ hai: Nếu con trai bác mất không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia theo pháp luật. Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thừa kế theo pháp luật như sau:

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo trình tự như sau:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Như vậy, trong trường hợp này bác thuộc hàng thừa kế thứ nhất của con mình nên được hưởng di sản (trừ trường hợp thuộc diện không được hưởng di sản theo khoản 1 điều 621 Bộ luật dân sự 2015) và được hưởng phần di sản bằng với những người thừa kế khác cùng hàng.

Kết luận: Trong mọi trường hợp, dù con trai bác có để lại di chúc hay không thì bác cũng có quyền sở hữu đối với di sản thừa kế của con trai mình, trong đó có quyền sử dụng đất. Vì vậy, con dâu bác không được quyền chuyển toàn bộ quyền sử dụng đất sang tên mình. Bác với tư cách là đồng thừa kế, hoàn toàn có quyền phản đối và yêu cầu phân chia di sản thừa kế theo quy định của từng trường hợp đã trình bày trên đây.

CCHC4

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)

5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)

68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958

Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

http://www.luatsugiadinh.net. vn

http://www.luatsuthanhpho.com

Luật sư tranh tụng về thừa kế kế vị

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Thừa Kế

1. Các tranh chấp về thừa kế phổ biến tại Tòa án

Các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống thực tiễn hết sức đa dạng trong đó tranh chấp về thừa kế nói chung, tranh chấp về thừa kế theo di chúc nói riêng xảy ra ngày một nhiều. Trước đây, do cuộc sống vật chất còn đơn giản, di sản thừa kế mà người chết để lại chỉ đơn thuần là các vật phẩm tiêu dùng, cao hơn nữa là nhà cửa, đất đai. Các danh tranh chấp đó là: (1) Tranh chấp giữa người thừa kế theo luật với người thừa kế theo di chúc; (2) Tranh chấp giữa người khác với người thừa kế theo di chúc; (3) Tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc với nhau; (4) Tranh chấp giữa những người thừa kế theo luật với nhau vì việc phân chia di sản không đồng đều; (5) Tranh chấp về thừa kế vì những người thừa kế cho rằng có người thừa kế không được quyền hướng di sản; (6) Tranh chấp thừa kế do xác định không chính xác về di sản thừa kế.

Tuy nhiên, ở đây, Luật sư Gia Đình đưa ra một số tranh chấp thường xảy ra trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày:

Thứ nhất, tranh chấp về hiệu lực của di chúc do di chúc lập không đúng thủ tục mà pháp luật đã quy định.

Bản án số 02/DSST ngày 10/10/2015 của TAND huyện S đã xét xử việc chia thừa kế giữa nguyên đơn là ông N.H.T, sinh năm 1945 trú tại thôn L, xã T, huyện S, tỉnh Y. Sauk hi kết hôn, vợ chồng ông về sống tại thôn thôn L, xã T, huyện S. Nguồn gốc nhà đất là của bố mẹ bà T cho vợ chồng ông. Năm 1980, ông bà có làm một căn nhà cấp 4 , đến năm 1995 vợ chồng ông lại xây tiếp nhà hai tầng nằm trên diện tích đất 736m2. Năm 1983, vợ chồng ông đón anh M (là con riêng của ông về ở). Năm 2006, vợ chồng ông nhận chị Nh làm con nuôi.

Khối tài sản của vợ chồng ông gồm 736m2 đất thổ cư, 112,55m2 nhà hai tầng, 42092m2 nhà cấp bốn, 32,3m2 bếp, chuồng lợn, 12.6m2 công trình phụ, một giếng nước, 39,52m2 sân gạch, 146,52m2 tường rào và tường hoa, 25 loại tài sản khác cùng với 26.317.000 đồng tiền mặt.

Chị Nh xuất trình một bản di chúc lập ngày 01/8/2014 với nội dung bà T định đoạt toàn bộ nhà đất cho chị Nh.

Ông T yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật vì ông cho rằng di chúc mà chị Nh xuất trình không có hiệu lực pháp luật.

Tòa sơ thẩm xét thấy di chúc mà chị Nh xuất trình là do chị Nh trực tiếp viết và có hai người và có hai người là ông Tr và ông Đ ký làm chứng. Tại lời khai ngày 14/9/2015 (bút lục số 15), ông Tr xác nhận di chúc của bà T là do gia đình chị Nh đưa cho ông ký làm chứng sau khi bà T đã chết và nay ông xác định chữ ký của ông tại bản di chúc là không có giá trị. Tòa sơ thẩm không chấp nhận di chúc do chị Nh xuất trình nên di sản của bà T được chia thừa kế theo pháp luật.

Qua vụ tranh chấp trên, luật sư thấy rằng bản di chúc mà chị Nha xuất trình trước Tòa án là di chúc tự lập nhưng trái với thủ tục mà pháp luật đã quy định đối với loại di chúc này (di chúc tự lập phải do chính người để lại di sản viết). Ngoài ra, di chúc định đoạt toàn bộ nhà đất cho chị Nh là đã định đoạt cả tài sản của người khác (tài sản của ông T) nên nội dung của di chúc cũng không đúng pháp luật. Vì thế, Tòa sơ thẩm không chấp nhận di chúc trên là hoàn toàn chính xác.

Bản án dân sự sơ thẩm bị đương sự kháng cáo và đã được TAND tỉnh xét xử lại theo trình tự phúc thẩm bằng bản án số 56/DSPT ngày 20/3/2016. Tại bản án này, Hội đồng xét xử cũng không chấp nhận di chúc của bà T lập ngày 01/8/2014 do chị Nh xuất trình. Di sản của bà T được chia thừa kế theo pháp luật.

Thứ hai, tranh chấp về hiệu lực của di chúc do người làm chứng di chúc không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật

Bản án số 03/DSST ngày 20/11/2016 của TAND Quận T đã xử chia thừa kế giữa nguyên đơn là bà Ng với bị đơn là anh L (sinh năm 1976).

Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Sau khi ly hôn với vợ là bà Ch, ông T đã bán ngôi nhà ở phố B, mua căn nhà ở mặt đường C và sống chung cùng chị Ng, đến ngày 22/4/2007 đăng ký kết hôn và tiếp tục sống chung nhưng không có con chung, giấy tờ mua bán nhà nói trên là viết tay và đứng tên ông T. Ngày 20/12/2015, ông T chết do bị ung thư gan. Trước khi chết 4 tiếng, ông T có bảo chị Ng viết hộ di chúc do ông đọc. Sauk hi viết xong di chúc, chị Ng có đưa bút cho ông T ký vào bản di chúc đó. Di chúc có chữ ký của ông M (là người làm chứng). Trong di chúc, ông T định đoạt cho bà Ng và anh L (là con riêng của ông T) mỗi người ½ căn nhà ở mặt đường C. Sau khi ông T chết, bà Ng yêu cầu chia thừa kế khối di sản mà ông T để lại. Tòa sơ thẩm đã chấp nhận di chúc miệng của ông C và cho bà Ng cùng anh L hưởng theo di chúc ngôi nhà ở mặt đường C. Phần di sản còn lại của ông T được chia theo pháp luật.

Anh L và anh S (là con riêng của ông T) kháng cáo vì cho rằng bà Ng không được hưởng theo di chúc vì đó là bản di chúc không có hiệu lực pháp luật.

Vụ án trên đã được TAND thành phố K xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Tại bản án số 110/DSPT ngày 26/5/2016, Hội đồng xét xử nhận định: Di chúc miệng do ông T lập được chị Ng viết hộ chỉ có một người làm chứng là ông M (chị Ng có ký trong di chúc nhưng không có tư cách là người làm chứng di chúc vì chị là người thừa kế của ông T). Trong khi Điều 630 và 632 BLDS năm 2015 quy định di chúc miệng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận di chúc này nên đã sửa bản án sơ thẩm. Di sản thừa kế mà ông T để lại được chia theo pháp luật.

Qua vụ án trên, luật sư nhận thấy rằng, di chúc miệng của ông T cũng có hai chữ ký của hai người làm chứng là chữ ký của ông M và chữ ký của bà Ng. Sai lầm của Tòa sơ thẩm là không xác định được chị Ng là người không được làm chứng cho di chúc của ông T. Việc Hội đồng xét xử sửa phần này của án sơ thẩm là hoàn toàn chính xác.

2. Luật sư tư vấn về thừa kế thế vị 

Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, Theo nguyên tắc chung trong luật thừa kế tài sản, người thừa kế là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên nếu người thừa kế chết trước thì như thế nào?

Người thừa kế chết trước người để lại di sản

Nhưng pháp luật thừa kế nước ta còn quy định trường hợp khi con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu của người đó được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống. Nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Những trường hợp này gọi là thừa kế thế vị.

Người thừa kế chết cùng người để lại di sản

Ngoài ra, pháp luật còn quy định trường hợp đặc biệt: cha, mẹ chết cùng thời điểm với ông hoặc bà thì cháu thay thế v| trí của cha hoặc mẹ nhận di sản của ông, bà.

Vậy, thừa kế thế vị là việc các con (cháu, chắt) được thay vào vị trí của bố hoặc mẹ (ông, bà) để hưởng di sản của ông bà (hoặc cụ) trong trường hợp bố hoặc mẹ (ông hoặc bà) chết trước hoặc chết cùng ông, bà (hoặc cụ). Những người thừa kế thế vị được hường phần di sản mà bố, mẹ mình (hoặc ông bà) dáng lẽ được hưởng nếu còn sống, được chia đều di sản vối những người thừa kế khác.

Cháu phải sống vào thời điểm ông, bà chết là người thừa kế thế vị của ông, bà. Chắt cũng phải sống vào thời điểm cụ chết là người thừa kế thế vị tài sản của cụ.

Quy định về thừa kế thế vị tại các văn bản pháp luật

Thừa kế thế vị được quy định rất nhiều tại các văn bản pháp luật: Bộ luật dân sự 2015, Luật hôn nhân và gia đình 2014…

Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) và Luật hôn nhân và gia đình 2014

Điều 653 BLDS quy định về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định về Người thừa kế theo pháp luật và Thừa kế thế vị.

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 68 Luật hôn nhân và gia đình 2014 (Luật HNGĐ) thì Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con được quy định tại Luật hôn nhân và gia đình, Luật nuôi con nuôi, BLDS và các luật khác có liên quan.

Nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi như sau

Theo quy định tại Điều 78 Luật hôn nhân và gia đình 2014:

– Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi.

– Trong trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của Tòa án thì quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ vào các quy định về Quyền, nghĩa vụ của ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; Quyền, nghĩa vụ của cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu và Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột tại Luật HNGĐ thì con nuôi không có mối quan hệ về các quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng nhau đối với những người thân thích thuộc gia đình của bố, mẹ nuôi như bố mẹ của cha, mẹ nuôi, anh, chị, em ruột của cha mẹ nuôi, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của cha mẹ nuôi.

Hay có thể hiểu người con nuôi không thể là cháu ruột của những người này, vì vậy người con nuôi không thể là người thừa kế của những người trên. Tuy nhiên, người làm con nuôi người khác vẫn có quan hệ với gia đình cha mẹ đẻ cho nên là người thừa kế theo quy định về Người thừa kế theo pháp luật hoặc thừa kế thế vị của những người thân thích.

Quy định về thừa kế thế vị tại Luật nuôi con nuôi 2010

Luật nuôi con nuôi 2010 quy định về hệ quả của việc nuôi con nuôi tại Khoản 1 Điều 24 như sau: Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

HTV XANH111

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)

5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)

68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 028-38779958; Fax: 08-38779958

Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

http://www.luatsugiadinh.net. vn

http://www.luatsuthanhpho.com

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006