Luật Sư Chuyên Hình Sự

Tư Vấn Về Thẩm Quyền Điều Tra

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Căn cứ Điều 110 BLTTHS quy định thẩm quyền điều tra:

“1. Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

2. Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.

3. Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.

4. Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.

Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực; Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.

5. Tổ chức bộ máy, thẩm quyền cụ thể của các Cơ quan điều tra do ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.”

Căn cứ Điều 11 Pháp lệnh điều tra vụ án hình sự 2004: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra trong Công an nhân dân:

“1. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chương XXII của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân.

2. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.

3. Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.”

Tuy nhiên, đến ngày 01/07/2016 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015 có hiệu lực pháp luật, thay thế Pháp lệnh điều tra vụ án hình sự 2004. Thẩm quyền điều tra cảu cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện như sau:

Điều 21 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015 quy định: Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện

– Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc chuyển ngay đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.

– Tiến hành điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương XXIV của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan An ninh điều tra của Công an nhân dân.

– Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.

– Kiểm tra, hướng dẫn Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận, kiểm tra, xác minh sơ bộ tố giác, tin báo về tội phạm.

– Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác điều tra, xử lý tội phạm của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)

5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)

68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM

Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958

Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

http://www.luatsugiadinh.net.vn

http://www.luatsuthanhpho.com

 

Vay tiền không trả, có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Vay tiền không trả, có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

 

Trong trường hợp cậu của bạn, việc xác định hành vi vi phạm phụ thuộc vào ý chí của cậu và khả năng hoàn trả lại tài sản của cậu sau khi nhận được tiền của gia đình. Nếu cậu của bạn đến thời hạn trả hoặc là mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Hành vi này của cậu bạn có thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

….

4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Với giá trị của số tiền lớn hơn 500 triệu đồng thì cậu của bạn sẽ bị xử phạt theo khoản 4 điều 175 bộ luật này với hình phạt tù từ 12 đến 20 năm.

Ngoài ra, cậu của bạn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như sau: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm; Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Như vậy, cậu của bạn chỉ là có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, không phải áp dụng đối với mọi trường hợp.

Trường hợp cậu của bạn không có những hành vi lừa dối hay bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền đã vay từ gia đình bạn, tuy nhiên đã hứa trả lại số tiền đó nhưng không còn khả năng trả lại nữa. Khi đó, bạn có thể tiến hành khởi kiện ra tòa án dân sự. Tòa án sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 71 Luật thi hành án năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành án như sau:

1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án.

2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ.

4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.

5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.

6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Pháp luật Việt Nam quy định về Tự Thú và đầu thú

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Pháp luật Việt Nam quy định về Tự Thú và đầu thú:

–         “Tự thú là tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra đã tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện.

–         “Đầu thú” là có người đã biết mình phạm tội, nhưng biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, khẳng định rằng “tự thú” và “đầu thú”  là hai hành vi hoàn toàn khác nhau. Cụ thể:

– Tự thú là mình tự nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội.

– Đầu thú là có người đã biết mình phạm tội, bản thân người phạm tội biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trong trường hợp tự thú và trong trường hợp đầu thú:

Theo quy định tại điểm o, Khoản 1, Điều 49  Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 người phạm tội tự thú sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không có quy định đầu thú là tình tiết giảm nhẹ, nhưng khoản 2 điều 46 có quy định: “Khi quyết định hình phạt, tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án”. Như vậy việc người phạm tội đầu thú có thể được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Khoản 2, Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 199, sửa đổi bổ sung năm 2009. Đến nay chưa có văn bản pháp quy nào hướng dẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp người phạm tội đầu thú. Do đó để hướng dẫn các vấn đề về nghiệp vụ đảm bảo cho việc áp dụng các quy định một cách thống nhất, Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn cụ thể trong Công văn số 81/2002 như sau:

– Nếu người phạm tội tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội thì áp dụng tình tiết giảm nhẹ “tự thú” quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ Luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

– Nếu có người đã biết hành vi phạm tội của người phạm tội nhưng biết không thể trốn tránh được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện thì áp dụng khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Tuy nhiên, cần chú ý là, trong trường hợp này, nếu người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hoặc có những việc làm khác thuộc trường hợp được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tương ứng quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Vậy trong trường hợp này đối với Trịnh Xuân Thanh có được hưởng lượng khoan hồng hay không thì xác định nhiều yếu tố về nhân thân trước khi phạm tội, gia đình có công cách mạng…. trong quá trình điều tra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm phát hiện điều tra tội phạm, lập công chuộc tội là cơ sở để cơ quan tố tụng có thẩm quyền ra phán quyết theo hướng có lợi cho bị can bị cáo, mà pháp luật quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định các điều 46, 47 bộ luật hình sự, Nghị quyết 01 của hội đồng thẩm phán .

Về đơn xin tự thú chỉ là căn cứ thủ tục pháp lý để trình diện trước cơ quan có thẩm quyền, khi đánh giá Trịnh Xuân Thanh làm đơn xin tự thú ra trình diện chỉ là “đầu thú”. Việc đầu thú của Trịnh Xuân Thanh khi quyết định hình phạt, tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án. Như vậy Trịnh Xuân Thanh chỉ có thể được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự .

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Luật Sư Tư Vấn Khi Bị Công An Triệu Tập Phải Làm Gì?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Hiện chưa có văn bản pháp luật nào quy định người dân khi nhận được giấy mời của công an là bắt buộc phải đến theo yêu cầu. Giấy mời không tạo ra nghĩa vụ buộc công dân phải đến (có thể đến có thể không).
Giấy triệu tập là biểu mẫu tố tụng hình sự được sử dụng trong hoạt động tố tụng hình sự.
công tác điều tra hình sự chỉ cho phép điều tra viên “được phân công điều tra vụ án hình sự” (tức vụ án đã được khởi tố) có quyền triệu tập và hỏi cung bị can, triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.Việc triệu tập hỏi cung, lấy lời khai phải theo kế hoạch đã được thủ trưởng hoặc phó thủ trưởng cơ quan điều tra được phân công chỉ đạo điều tra vụ án duyệt. Do đó, nếu không phải là “người tham gia tố tụng” trong một vụ án hình sự cụ thể, công dân không thể bị triệu tập.“Công dân có quyền từ chối làm việc và tố cáo hành vi trái pháp luật của người triệu tập nếu vụ án hình sự chưa được khởi tố, người triệu tập không có thẩm quyền, chưa xác định được tư cách tham gia tố tụng của người bị triệu tập, chưa được giải thích rõ ràng về quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng...”
Phải làm sao? Hiến pháp 2013 đã quy định “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm”.Ngoài ra, Hiến pháp cũng nêu rõ không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện KSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang... Do đó, một người khi được cơ quan công an triệu tập, mời lên làm việc, ngoài việc nắm rõ các quyền tối thiểu mà Hiến pháp đã quy định, cũng cần tìm hiểu hoặc nhận được sự trợ giúp về pháp lý, để biết được mình bị triệu tập, bị tạm giữ, tạm giam vì lý do gì. Họ có quyền yêu cầu nơi triệu tập, mời làm việc giải thích rõ về các quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ việc.Khi tiến hành bắt hoặc tạm giữ người, người ra lệnh bắt phải thông báo cho gia đình người bị bắt, chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc biết. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam. Từ những quy định pháp lý này, người dân có thể đối chiếu để biết rõ mình bị triệu tập hoặc bị bắt giữ có căn cứ và đúng trình tự pháp luật quy định hay không.Ngay từ khi bị bắt tạm giữ hoặc bị tạm giam, họ có quyền tự bào chữa và nhờ luật sư bào chữa, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu có bất cứ hành vi nào nhằm trấn áp tinh thần, dùng vũ lực đe dọa, các hình thức ép cung, bức cung... công dân cần có thái độ phù hợp, không thái quá, đồng thời yêu cầu ngừng làm việc để có người giám hộ hoặc yêu cầu nhờ luật sư bào chữa. Kiên quyết không ký vào biên bản ghi nhận nội dung không đúng lời trình bày của mình...
Luật cũng nghiêm cấm điều tra viên gọi điện thoại hoặc thông qua người khác để yêu cầu người được triệu tập đến làm việc mà không có giấy triệu tập hoặc giấy mời...Tuy nhiên trong thực tế, nhiều nơi lạm dụng giấy triệu tập vào những vụ việc không cần thiết, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của tổ chức, cá nhân.“Luật đã có quy định nhưng cần phải có chế tài rõ ràng để hạn chế việc sử dụng giấy triệu tập một cách tùy tiện, sai mục đích...” luật cần bổ sung quy định về việc khi triệu tập công dân đến làm việc trong các vụ việc hành chính hay có dấu hiệu hình sự thì cần phải thông báo với gia đình, chính quyền địa phương, cảnh sát khu vực hoặc hàng xóm để gia đình nắm bắt được thông tin, giám sát phù hợp. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực từ ngày 1-7-2016, một người bị tố giác, tin báo tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố ngay từ trước khi vụ án được khởi tố, khi nhận được giấy triệu tập, mời làm việc của cơ quan công an đều có quyền có luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình.“Quy định này không chỉ bảo đảm quyền con người, đề cao vị trí, vai trò của luật sư trong việc hỗ trợ pháp lý cho người dân, mà còn hạn chế tình trạng một số người bị áp lực, hoảng loạn dẫn đến những hành động đáng tiếc” - luật sư Phan Trung Hoài nói. Chuẩn bị sẵn tâm lý, bình tĩnh trả lờikhi bị triệu tập, mời làm việc về một vấn đề liên quan thì người được triệu tập nên chuẩn bị sẵn tâm lý, bình tĩnh trả lời các câu hỏi của công an.Nếu câu hỏi có dấu hiệu quy chụp trách nhiệm, quy tội thì người được triệu tập có quyền ghi vào biên bản về nội dung đó.Trường hợp người được triệu tập không phạm tội nhưng biết được người khác có liên quan đến vụ án thì nên thành khẩn khai báo để tránh bị truy tố với tội “không tố giác tội phạm”.Sau khi làm việc, người được triệu tập cần đọc kỹ biên bản làm việc và ghi rõ đồng ý hay không đồng ý với nội dung làm việc nào và yêu cầu cơ quan công an cung cấp bản sao biên bản làm việc (trừ biên bản hỏi cung bị can, bị cáo).

 

 Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Vướng mắc cần tháo gỡ để nâng cao hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên toà hình sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Vướng mắc cần tháo gỡ để nâng cao hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên toà hình sự

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới: “... Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư và những người tham gia tố tụng khác... Khi xét xử, các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan...; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định... Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng...”.

Theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bào chữa bao gồm: Luật sư; bào chữa viên nhân dân; đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thông qua thực tiễn xét xử, thì hầu hết việc bào chữa trong các vụ án hình sự đều do các luật sư đảm nhiệm. Vai trò của luật sư trong quá trình tố tụng có một vị trí hết sức quan trọng, với nhiệm vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới một nội dung đó là hoạt động của luật sư trong các phiên toà hình sự, mà chủ yếu là đề cập tới một số nội dung vướng mắc, bất cập của pháp luật cần phải sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư trong hoạt động tố tụng, nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của luật sư tại mỗi phiên toà xét xử các vụ án hình sự.

 Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, tính đến thời điểm hiện nay cả nước đã thành lập 62 Đoàn luật sư thuộc 62 tỉnh, thành phố, với hơn 7.000 luật sư và gần 3.500 người tập sự hành nghề luật sư trong 8.231 tổ chức hành nghề luật sư. Tuy nhiên, số lượng luật sư ở nước ta hiện nay vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu khi dịch vụ pháp lý ngày càng tăng trong các lĩnh vực của đời sống, nhất là việc tham gia trợ giúp và bào chữa cho các bị can, bị cáo và các đương sự trong các vụ, việc nói chung và các vụ án hình sự nói riêng. Trên thực tế, hiện chỉ có khoảng 20% các vụ án hình sự trong cả nước có luật sư tham gia, trừ các vụ án hình sự bắt buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo (luật sư chỉ định). Như vậy, hầu hết các vụ án chưa có sự tham gia của luật sư.

1. Về thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa

Khi bị bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ lựa chọn luật sư là người bào chữa thì luật sư phải có đầy đủ thủ tục, giấy tờ cần thiết đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Thủ tục này là cần thiết nhằm xác định tư cách, điều kiện pháp lý để tham gia tố tụng của một luật sư. Theo quy định của pháp luật, để các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư phải có các giấy tờ theo quy định tại Điều 27 của Luật Luật sư như: Thẻ luật sư, chứng chỉ hành nghề, giấy giới thiệu của văn phòng nơi luật sư công tác... Trong thời hạn ba ngày, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét cấp giấy chứng nhận bào chữa cho họ để họ thực hiện quyền bào chữa.

Pháp luật tố tụng hình sự quy định: “Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét để cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư để họ thực hiện quyền bào chữa, nếu từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì phải nêu rõ lý do; trường hợp tạm giữ người, thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, cơ quan điều tra phải xem xét để cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư để họ thực hiện quyền bào chữa, nếu từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì phải nêu rõ lý do”, quy định như vậy là phù hợp. Tuy nhiên, do luật không quy định về thủ tục giao - nhận giấy chứng nhận người bào chữa có bắt buộc luật sư phải trực tiếp đến cơ quan tiến hành tố tụng để nhận giấy chứng nhận người bào chữa hay không. Hiện nay, qua thực tiễn cho thấy, một số cơ quan khi có giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư thì yêu cầu luật sư phải tới cơ quan tiến hành tố tụng để nhận trực tiếp, có cơ quan thì không bắt buộc mà chỉ gửi qua đường công văn. Theo chúng tôi, việc yêu cầu luật sư phải đến cơ quan để nhận giấy chứng nhận người bào chữa là không cần thiết, mà chỉ cần xem xét nếu luật sư đó đã có đầy đủ thủ tục và các giấy tờ theo quy định, thì cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận và gửi cho họ theo đường công văn về văn phòng nơi luật sư đó công tác, miễn sao thời gian cấp và gửi giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư không quá ba ngày theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc luật sư nhận được hay không, không phụ thuộc vào cơ quan đã gửi. Trong thực tiễn, nhiều văn bản, giấy tờ khác, cơ quan tiến hành tố tụng cũng chỉ phải gửi qua đường công văn, như: Bản án, lệnh tạm giam, giấy triệu tập... Cho nên, không có lý gì phải yêu cầu luật sư tới tận trụ sở cơ quan tiến hành tố tụng để nhận giấy chứng nhận người bào chữa, vì có trường hợp luật sư ở rất xa như ở TP. Hồ Chí Minh phải ra tận Hà Nội để nhận giấy chứng nhận người bào chữa, điều này là quá tốn kém cho luật sư và không cần thiết. Tuy nhiên, để tránh trường hợp ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng (như việc hoãn phiên toà khi luật sư vắng mặt), thì trong thủ tục gửi giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư cũng cần có quy định: Văn phòng luật sư phải có trách nhiệm thông báo về việc đã nhận được giấy chứng nhận người bào chữa của luật sư cho cơ quan tiến hành tố tụng đó biết.

2. Về nội dung tranh tụng của luật sư, kiểm sát viên tại phiên toà

Chúng ta đã biết, tranh tụng tại các phiên toà hình sự là hoạt động của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng như: Kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật, nhằm làm sáng tỏ vụ án, xác định một người có tội hay không có tội. Hoạt động này bảo đảm cho việc xét xử các vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm. Hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự còn là cuộc điều tra công khai, dân chủ, khách quan, loại bỏ quan niệm cho rằng: Bản án và quyết định của Toà án được ban hành không phải trên cơ sở tranh luận tại phiên toà mà chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của thẩm phán thông qua nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi xét xử (“án tại hồ sơ”, “án bỏ túi”). Vì vậy, hoạt động tranh tụng tại phiên toà hình sự giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình tố tụng, là một trong những cơ sở quan trọng giúp Hội đồng xét xử giải quyết đúng đắn vụ án.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong hoạt động tố tụng hình sự cũng còn không ít tồn tại như: Sự vi phạm thủ tục tố tụng trong quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ; điều tra phiến diện, không đầy đủ; đánh giá chứng cứ không chính xác; nhận thức và áp dụng không đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự và các quy định khác của pháp luật... dẫn đến xử lý oan sai, không bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Vì thế, cần phải nâng cao hiệu quả của giai đoạn tranh tụng tại phiên toà, mở rộng tính dân chủ trong việc đưa ra chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội của các chủ thể tham gia tố tụng, nhằm khắc phục những tồn tại trên.

Các chủ thể quan trọng nhất trong giai đoạn tranh luận tại phiên toà đó là: Luật sư và kiểm sát viên. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khi tham gia xét xử tại Toà án, kiểm sát viên thực hiện các nhiệm vụ: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án; tham gia phiên toà, đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án; tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà. Để luật sư và kiểm sát viên tham gia tranh luận theo đúng quy định của pháp luật, đòi hỏi Hội đồng xét xử phải hết sức công minh, theo dõi điều hành đúng quy định của pháp luật, không thiên vị, không áp đặt để cho việc tranh luận đạt hiệu quả. Chỉ có thông qua việc thẩm vấn của Hội đồng xét xử, cộng với kết quả tranh luận khách quan của các chủ thể, thì các tình tiết của vụ án mới được làm sáng tỏ và công minh. Tuy nhiên, cũng không ít phiên toà, việc tranh luận của luật sư và kiểm sát viên còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc đối đáp giữa các bên hoặc trường hợp thường hay gặp đó là việc luật sư khi tranh luận đưa ra nhiều tình tiết không liên quan đến nội dung vụ án dẫn đến Chủ toạ phiên toà cắt nội dung tranh luận của luật sư làm cho chất lượng tranh luận không cao. Có trường hợp khi đối đáp, Viện kiểm sát chỉ nêu tranh luận của luật sư là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận; hoặc có phiên toà phần tranh luận của luật sư và kiểm sát viên lại không đuợc tiến hành đầy đủ, nên phần nào cũng dẫn đến kết qủa xét xử của mỗi phiên toà không cao.

Từ yêu cầu hết sức quan trọng của công tác tranh luận tại toà, thông qua thực tiễn xét xử thấy, cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của hoạt động tranh tụng nói chung và việc tranh tụng của luật sư và kiểm sát viên tại các phiên toà hình sự nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều này, theo chúng tôi, cần áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau nhằm hạn chế, khắc phục những yếu tố tiêu cực là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tranh tụng của các chủ thể; đồng thời, phát huy các yếu tố tích cực đối với hoạt động này trong thời gian tới. Theo đó, trước hết chúng ta cần tăng cường các giải pháp pháp lý hướng tới hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng thực hiện tốt nhất quyền năng và nghĩa vụ pháp lý của mình.

Theo chúng tôi, trong lần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự này, những nội dung như địa vị pháp lý của người bào chữa, thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa bào chữa, nguyên tắc tranh luận tại phiên toà... cần được quan tâm thoả đáng. Ngoài ra, cần có sự phối hợp giữa Liên Đoàn Luật sư Việt Nam với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an sớm nghiên cứu và xây dựng văn bản liên ngành để xác lập cơ chế phối hợp, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng nói chung và tham gia tranh luận tại các phiên toà hình sự nói riêng. Có như vậy mới góp phần nâng cao chất lượng xét xử các phiên toà hình sự, đáp ứng yêu cầu của công tác cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện tại cũng như sau này.

Vũ Thành Long

Nguồn: tạp chí dân chủ và pháp luật

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006