Luật Sư Chuyên Hình Sự

Vay tiền không trả, có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Vay tiền không trả, có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

 

Trong trường hợp cậu của bạn, việc xác định hành vi vi phạm phụ thuộc vào ý chí của cậu và khả năng hoàn trả lại tài sản của cậu sau khi nhận được tiền của gia đình. Nếu cậu của bạn đến thời hạn trả hoặc là mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Hành vi này của cậu bạn có thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

….

4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Với giá trị của số tiền lớn hơn 500 triệu đồng thì cậu của bạn sẽ bị xử phạt theo khoản 4 điều 175 bộ luật này với hình phạt tù từ 12 đến 20 năm.

Ngoài ra, cậu của bạn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như sau: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm; Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Như vậy, cậu của bạn chỉ là có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, không phải áp dụng đối với mọi trường hợp.

Trường hợp cậu của bạn không có những hành vi lừa dối hay bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền đã vay từ gia đình bạn, tuy nhiên đã hứa trả lại số tiền đó nhưng không còn khả năng trả lại nữa. Khi đó, bạn có thể tiến hành khởi kiện ra tòa án dân sự. Tòa án sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 71 Luật thi hành án năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành án như sau:

1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án.

2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ.

4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.

5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.

6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Pháp luật Việt Nam quy định về Tự Thú và đầu thú

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Pháp luật Việt Nam quy định về Tự Thú và đầu thú:

–         “Tự thú là tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra đã tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện.

–         “Đầu thú” là có người đã biết mình phạm tội, nhưng biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, khẳng định rằng “tự thú” và “đầu thú”  là hai hành vi hoàn toàn khác nhau. Cụ thể:

– Tự thú là mình tự nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội.

– Đầu thú là có người đã biết mình phạm tội, bản thân người phạm tội biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện để cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trong trường hợp tự thú và trong trường hợp đầu thú:

Theo quy định tại điểm o, Khoản 1, Điều 49  Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 người phạm tội tự thú sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không có quy định đầu thú là tình tiết giảm nhẹ, nhưng khoản 2 điều 46 có quy định: “Khi quyết định hình phạt, tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án”. Như vậy việc người phạm tội đầu thú có thể được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Khoản 2, Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 199, sửa đổi bổ sung năm 2009. Đến nay chưa có văn bản pháp quy nào hướng dẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp người phạm tội đầu thú. Do đó để hướng dẫn các vấn đề về nghiệp vụ đảm bảo cho việc áp dụng các quy định một cách thống nhất, Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn cụ thể trong Công văn số 81/2002 như sau:

– Nếu người phạm tội tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội thì áp dụng tình tiết giảm nhẹ “tự thú” quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ Luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.

– Nếu có người đã biết hành vi phạm tội của người phạm tội nhưng biết không thể trốn tránh được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện thì áp dụng khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Tuy nhiên, cần chú ý là, trong trường hợp này, nếu người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hoặc có những việc làm khác thuộc trường hợp được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tương ứng quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Vậy trong trường hợp này đối với Trịnh Xuân Thanh có được hưởng lượng khoan hồng hay không thì xác định nhiều yếu tố về nhân thân trước khi phạm tội, gia đình có công cách mạng…. trong quá trình điều tra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm phát hiện điều tra tội phạm, lập công chuộc tội là cơ sở để cơ quan tố tụng có thẩm quyền ra phán quyết theo hướng có lợi cho bị can bị cáo, mà pháp luật quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định các điều 46, 47 bộ luật hình sự, Nghị quyết 01 của hội đồng thẩm phán .

Về đơn xin tự thú chỉ là căn cứ thủ tục pháp lý để trình diện trước cơ quan có thẩm quyền, khi đánh giá Trịnh Xuân Thanh làm đơn xin tự thú ra trình diện chỉ là “đầu thú”. Việc đầu thú của Trịnh Xuân Thanh khi quyết định hình phạt, tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án. Như vậy Trịnh Xuân Thanh chỉ có thể được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự .

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Luật Sư Tư Vấn Khi Bị Công An Triệu Tập Phải Làm Gì?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Hiện chưa có văn bản pháp luật nào quy định người dân khi nhận được giấy mời của công an là bắt buộc phải đến theo yêu cầu. Giấy mời không tạo ra nghĩa vụ buộc công dân phải đến (có thể đến có thể không).
Giấy triệu tập là biểu mẫu tố tụng hình sự được sử dụng trong hoạt động tố tụng hình sự.
công tác điều tra hình sự chỉ cho phép điều tra viên “được phân công điều tra vụ án hình sự” (tức vụ án đã được khởi tố) có quyền triệu tập và hỏi cung bị can, triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.Việc triệu tập hỏi cung, lấy lời khai phải theo kế hoạch đã được thủ trưởng hoặc phó thủ trưởng cơ quan điều tra được phân công chỉ đạo điều tra vụ án duyệt. Do đó, nếu không phải là “người tham gia tố tụng” trong một vụ án hình sự cụ thể, công dân không thể bị triệu tập.“Công dân có quyền từ chối làm việc và tố cáo hành vi trái pháp luật của người triệu tập nếu vụ án hình sự chưa được khởi tố, người triệu tập không có thẩm quyền, chưa xác định được tư cách tham gia tố tụng của người bị triệu tập, chưa được giải thích rõ ràng về quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng...”
Phải làm sao? Hiến pháp 2013 đã quy định “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm”.Ngoài ra, Hiến pháp cũng nêu rõ không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện KSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang... Do đó, một người khi được cơ quan công an triệu tập, mời lên làm việc, ngoài việc nắm rõ các quyền tối thiểu mà Hiến pháp đã quy định, cũng cần tìm hiểu hoặc nhận được sự trợ giúp về pháp lý, để biết được mình bị triệu tập, bị tạm giữ, tạm giam vì lý do gì. Họ có quyền yêu cầu nơi triệu tập, mời làm việc giải thích rõ về các quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ việc.Khi tiến hành bắt hoặc tạm giữ người, người ra lệnh bắt phải thông báo cho gia đình người bị bắt, chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc biết. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam. Từ những quy định pháp lý này, người dân có thể đối chiếu để biết rõ mình bị triệu tập hoặc bị bắt giữ có căn cứ và đúng trình tự pháp luật quy định hay không.Ngay từ khi bị bắt tạm giữ hoặc bị tạm giam, họ có quyền tự bào chữa và nhờ luật sư bào chữa, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu có bất cứ hành vi nào nhằm trấn áp tinh thần, dùng vũ lực đe dọa, các hình thức ép cung, bức cung... công dân cần có thái độ phù hợp, không thái quá, đồng thời yêu cầu ngừng làm việc để có người giám hộ hoặc yêu cầu nhờ luật sư bào chữa. Kiên quyết không ký vào biên bản ghi nhận nội dung không đúng lời trình bày của mình...
Luật cũng nghiêm cấm điều tra viên gọi điện thoại hoặc thông qua người khác để yêu cầu người được triệu tập đến làm việc mà không có giấy triệu tập hoặc giấy mời...Tuy nhiên trong thực tế, nhiều nơi lạm dụng giấy triệu tập vào những vụ việc không cần thiết, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của tổ chức, cá nhân.“Luật đã có quy định nhưng cần phải có chế tài rõ ràng để hạn chế việc sử dụng giấy triệu tập một cách tùy tiện, sai mục đích...” luật cần bổ sung quy định về việc khi triệu tập công dân đến làm việc trong các vụ việc hành chính hay có dấu hiệu hình sự thì cần phải thông báo với gia đình, chính quyền địa phương, cảnh sát khu vực hoặc hàng xóm để gia đình nắm bắt được thông tin, giám sát phù hợp. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực từ ngày 1-7-2016, một người bị tố giác, tin báo tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố ngay từ trước khi vụ án được khởi tố, khi nhận được giấy triệu tập, mời làm việc của cơ quan công an đều có quyền có luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình.“Quy định này không chỉ bảo đảm quyền con người, đề cao vị trí, vai trò của luật sư trong việc hỗ trợ pháp lý cho người dân, mà còn hạn chế tình trạng một số người bị áp lực, hoảng loạn dẫn đến những hành động đáng tiếc” - luật sư Phan Trung Hoài nói. Chuẩn bị sẵn tâm lý, bình tĩnh trả lờikhi bị triệu tập, mời làm việc về một vấn đề liên quan thì người được triệu tập nên chuẩn bị sẵn tâm lý, bình tĩnh trả lời các câu hỏi của công an.Nếu câu hỏi có dấu hiệu quy chụp trách nhiệm, quy tội thì người được triệu tập có quyền ghi vào biên bản về nội dung đó.Trường hợp người được triệu tập không phạm tội nhưng biết được người khác có liên quan đến vụ án thì nên thành khẩn khai báo để tránh bị truy tố với tội “không tố giác tội phạm”.Sau khi làm việc, người được triệu tập cần đọc kỹ biên bản làm việc và ghi rõ đồng ý hay không đồng ý với nội dung làm việc nào và yêu cầu cơ quan công an cung cấp bản sao biên bản làm việc (trừ biên bản hỏi cung bị can, bị cáo).

 

 Giai đoạn tố tụng mà luật sư có thể tham gia

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) thì người bào chữa có thể là:

1.  Luật sư;

2.  Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

3.  Bào chữa viên nhân dân.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 58 BLTTHS có quy định: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Căn cứ những quy định trên, luật sư có thể tham gia tố tụng để bào chữa cho em bạn khi em bạn hoặc gia đình bạn có giấy mời luật sư sau đó Luật sư sẽ tiến hành những thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận bào chữa theo quy định của BLTTHS và những văn bản có liên quan.

II. Quyền hạn của Luật sư (người bào chữa)

Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì Luật sư (người bào chữa) có quyền:

1.  Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

2.  Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

3.  Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

4.  Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;

5.  Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

6.  Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;

7.  Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

8.  Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

9.  Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

10. Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm là đối tác tư vấn pháp luật rất nhiều năm, thường xuyên, liên tục trả lời phỏng vấn trên Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài phát thanh Kiên Giang, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Vướng mắc cần tháo gỡ để nâng cao hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên toà hình sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Vướng mắc cần tháo gỡ để nâng cao hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên toà hình sự

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ ra những quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới: “... Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư và những người tham gia tố tụng khác... Khi xét xử, các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan...; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định... Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng...”.

Theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì người bào chữa bao gồm: Luật sư; bào chữa viên nhân dân; đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thông qua thực tiễn xét xử, thì hầu hết việc bào chữa trong các vụ án hình sự đều do các luật sư đảm nhiệm. Vai trò của luật sư trong quá trình tố tụng có một vị trí hết sức quan trọng, với nhiệm vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập tới một nội dung đó là hoạt động của luật sư trong các phiên toà hình sự, mà chủ yếu là đề cập tới một số nội dung vướng mắc, bất cập của pháp luật cần phải sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng và luật sư trong hoạt động tố tụng, nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng của luật sư tại mỗi phiên toà xét xử các vụ án hình sự.

 Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, tính đến thời điểm hiện nay cả nước đã thành lập 62 Đoàn luật sư thuộc 62 tỉnh, thành phố, với hơn 7.000 luật sư và gần 3.500 người tập sự hành nghề luật sư trong 8.231 tổ chức hành nghề luật sư. Tuy nhiên, số lượng luật sư ở nước ta hiện nay vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu khi dịch vụ pháp lý ngày càng tăng trong các lĩnh vực của đời sống, nhất là việc tham gia trợ giúp và bào chữa cho các bị can, bị cáo và các đương sự trong các vụ, việc nói chung và các vụ án hình sự nói riêng. Trên thực tế, hiện chỉ có khoảng 20% các vụ án hình sự trong cả nước có luật sư tham gia, trừ các vụ án hình sự bắt buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo (luật sư chỉ định). Như vậy, hầu hết các vụ án chưa có sự tham gia của luật sư.

1. Về thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa

Khi bị bị can, bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ lựa chọn luật sư là người bào chữa thì luật sư phải có đầy đủ thủ tục, giấy tờ cần thiết đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Thủ tục này là cần thiết nhằm xác định tư cách, điều kiện pháp lý để tham gia tố tụng của một luật sư. Theo quy định của pháp luật, để các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư phải có các giấy tờ theo quy định tại Điều 27 của Luật Luật sư như: Thẻ luật sư, chứng chỉ hành nghề, giấy giới thiệu của văn phòng nơi luật sư công tác... Trong thời hạn ba ngày, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét cấp giấy chứng nhận bào chữa cho họ để họ thực hiện quyền bào chữa.

Pháp luật tố tụng hình sự quy định: “Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét để cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư để họ thực hiện quyền bào chữa, nếu từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì phải nêu rõ lý do; trường hợp tạm giữ người, thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, cơ quan điều tra phải xem xét để cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư để họ thực hiện quyền bào chữa, nếu từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì phải nêu rõ lý do”, quy định như vậy là phù hợp. Tuy nhiên, do luật không quy định về thủ tục giao - nhận giấy chứng nhận người bào chữa có bắt buộc luật sư phải trực tiếp đến cơ quan tiến hành tố tụng để nhận giấy chứng nhận người bào chữa hay không. Hiện nay, qua thực tiễn cho thấy, một số cơ quan khi có giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư thì yêu cầu luật sư phải tới cơ quan tiến hành tố tụng để nhận trực tiếp, có cơ quan thì không bắt buộc mà chỉ gửi qua đường công văn. Theo chúng tôi, việc yêu cầu luật sư phải đến cơ quan để nhận giấy chứng nhận người bào chữa là không cần thiết, mà chỉ cần xem xét nếu luật sư đó đã có đầy đủ thủ tục và các giấy tờ theo quy định, thì cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận và gửi cho họ theo đường công văn về văn phòng nơi luật sư đó công tác, miễn sao thời gian cấp và gửi giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư không quá ba ngày theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc luật sư nhận được hay không, không phụ thuộc vào cơ quan đã gửi. Trong thực tiễn, nhiều văn bản, giấy tờ khác, cơ quan tiến hành tố tụng cũng chỉ phải gửi qua đường công văn, như: Bản án, lệnh tạm giam, giấy triệu tập... Cho nên, không có lý gì phải yêu cầu luật sư tới tận trụ sở cơ quan tiến hành tố tụng để nhận giấy chứng nhận người bào chữa, vì có trường hợp luật sư ở rất xa như ở TP. Hồ Chí Minh phải ra tận Hà Nội để nhận giấy chứng nhận người bào chữa, điều này là quá tốn kém cho luật sư và không cần thiết. Tuy nhiên, để tránh trường hợp ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng (như việc hoãn phiên toà khi luật sư vắng mặt), thì trong thủ tục gửi giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư cũng cần có quy định: Văn phòng luật sư phải có trách nhiệm thông báo về việc đã nhận được giấy chứng nhận người bào chữa của luật sư cho cơ quan tiến hành tố tụng đó biết.

2. Về nội dung tranh tụng của luật sư, kiểm sát viên tại phiên toà

Chúng ta đã biết, tranh tụng tại các phiên toà hình sự là hoạt động của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng như: Kiểm sát viên, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật, nhằm làm sáng tỏ vụ án, xác định một người có tội hay không có tội. Hoạt động này bảo đảm cho việc xét xử các vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm. Hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự còn là cuộc điều tra công khai, dân chủ, khách quan, loại bỏ quan niệm cho rằng: Bản án và quyết định của Toà án được ban hành không phải trên cơ sở tranh luận tại phiên toà mà chủ yếu dựa vào ý chí chủ quan của thẩm phán thông qua nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi xét xử (“án tại hồ sơ”, “án bỏ túi”). Vì vậy, hoạt động tranh tụng tại phiên toà hình sự giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình tố tụng, là một trong những cơ sở quan trọng giúp Hội đồng xét xử giải quyết đúng đắn vụ án.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong hoạt động tố tụng hình sự cũng còn không ít tồn tại như: Sự vi phạm thủ tục tố tụng trong quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ; điều tra phiến diện, không đầy đủ; đánh giá chứng cứ không chính xác; nhận thức và áp dụng không đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự và các quy định khác của pháp luật... dẫn đến xử lý oan sai, không bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Vì thế, cần phải nâng cao hiệu quả của giai đoạn tranh tụng tại phiên toà, mở rộng tính dân chủ trong việc đưa ra chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội của các chủ thể tham gia tố tụng, nhằm khắc phục những tồn tại trên.

Các chủ thể quan trọng nhất trong giai đoạn tranh luận tại phiên toà đó là: Luật sư và kiểm sát viên. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khi tham gia xét xử tại Toà án, kiểm sát viên thực hiện các nhiệm vụ: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án; tham gia phiên toà, đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án; tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà. Để luật sư và kiểm sát viên tham gia tranh luận theo đúng quy định của pháp luật, đòi hỏi Hội đồng xét xử phải hết sức công minh, theo dõi điều hành đúng quy định của pháp luật, không thiên vị, không áp đặt để cho việc tranh luận đạt hiệu quả. Chỉ có thông qua việc thẩm vấn của Hội đồng xét xử, cộng với kết quả tranh luận khách quan của các chủ thể, thì các tình tiết của vụ án mới được làm sáng tỏ và công minh. Tuy nhiên, cũng không ít phiên toà, việc tranh luận của luật sư và kiểm sát viên còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc đối đáp giữa các bên hoặc trường hợp thường hay gặp đó là việc luật sư khi tranh luận đưa ra nhiều tình tiết không liên quan đến nội dung vụ án dẫn đến Chủ toạ phiên toà cắt nội dung tranh luận của luật sư làm cho chất lượng tranh luận không cao. Có trường hợp khi đối đáp, Viện kiểm sát chỉ nêu tranh luận của luật sư là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận; hoặc có phiên toà phần tranh luận của luật sư và kiểm sát viên lại không đuợc tiến hành đầy đủ, nên phần nào cũng dẫn đến kết qủa xét xử của mỗi phiên toà không cao.

Từ yêu cầu hết sức quan trọng của công tác tranh luận tại toà, thông qua thực tiễn xét xử thấy, cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của hoạt động tranh tụng nói chung và việc tranh tụng của luật sư và kiểm sát viên tại các phiên toà hình sự nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều này, theo chúng tôi, cần áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau nhằm hạn chế, khắc phục những yếu tố tiêu cực là nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tranh tụng của các chủ thể; đồng thời, phát huy các yếu tố tích cực đối với hoạt động này trong thời gian tới. Theo đó, trước hết chúng ta cần tăng cường các giải pháp pháp lý hướng tới hoàn thiện các quy định của pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng thực hiện tốt nhất quyền năng và nghĩa vụ pháp lý của mình.

Theo chúng tôi, trong lần sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự này, những nội dung như địa vị pháp lý của người bào chữa, thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa bào chữa, nguyên tắc tranh luận tại phiên toà... cần được quan tâm thoả đáng. Ngoài ra, cần có sự phối hợp giữa Liên Đoàn Luật sư Việt Nam với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an sớm nghiên cứu và xây dựng văn bản liên ngành để xác lập cơ chế phối hợp, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng nói chung và tham gia tranh luận tại các phiên toà hình sự nói riêng. Có như vậy mới góp phần nâng cao chất lượng xét xử các phiên toà hình sự, đáp ứng yêu cầu của công tác cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện tại cũng như sau này.

Vũ Thành Long

Nguồn: tạp chí dân chủ và pháp luật

Án lệ số 01/2016/AL về vụ án “Giết người”

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Án lệ số 01/2016/AL về vụ án “Giết người”

Án lệ số 01/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 04/2014/HS-GĐT ngày 16-4-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Giết người” đối với bị cáo: Đồng Xuân Phương, sinh năm 1975; trú tại nhà số 11/73 phố Đinh Tiên Hoàng, Phường Hoàng Văn Thụ, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; là công nhân xây dựng; con ông Đồng Xuân Chì và bà Dương Thị Thông; bị bắt giam ngày 22-6-2007;

Người bị hại: Nguyễn Văn Soi, sinh năm 1971 (đã chết).

Khái quát nội dung của án lệ:

Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ (người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người); người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điểm m, n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật hình sự năm 1999;

- Khoản 3 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Từ khóa của án lệ:

“Giết người”; “Cố ý gây thương tích”; “Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”; “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe”; “Thuê người khác gây thương tích”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 15 giờ ngày 21-6-2007, Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội nhận được tin báo đã xảy ra vụ án, nạn nhân bị chết tại khu vực đúc dầm bê tông thi công cầu Thanh Trì thuộc địa phận tổ 12, phường Thạch Bàn, quận Long Biên; nạn nhân là anh Nguyễn Văn Soi (kỹ sư xây dựng thuộc Công ty cổ phần xây dựng 204 thuộc Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng). Qua điều tra, xác minh, Công an quận Long Biên đã bắt khẩn cấp Đồng Xuân Phương.

Quá trình điều tra xác định: anh Nguyễn Văn Soi và Đồng Xuân Phương cùng làm việc tại Công ty cổ phần xây dựng 204 thuộc Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng (được giao nhiệm vụ thi công, xây dựng cầu Thanh Trì). Khoảng tháng 02-2007, Phương uống rượu say trong giờ làm việc, bị anh Soi dùng điện thoại di động chụp ảnh, báo cáo lãnh đạo nên Phương có ý định trả thù anh Soi.

Ngày 14-6-2007, Đồng Xuân Phương gọi điện thoại cho bạn là Đoàn Đức Lân sinh năm 1975 (trú tại nhà số 11 C98 Trại Chuối, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng) nói việc mâu thuẫn nêu trên và thuê Lân đánh trả thù. Lân nói sẽ giới thiệu người khác thực hiện. Tối ngày 17-6-2007, Phương từ Hà Nội về Hải Phòng gặp Lân và bạn của Lân là Hoàng Ngọc Mạnh sinh năm 1982 (còn gọi là Thắng; trú tại phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng) kể lại việc mâu thuẫn và thuê Lân, Mạnh đánh anh Soi, bằng cách dùng dao đâm vào chân, tay nạn nhân để gây thương tích. Đồng Xuân Phương hỏi giá bao nhiêu, Mạnh và Lân nói tùy nên Phương đã đưa cho Mạnh 1.500.000 đồng. Lân và Mạnh đồng ý.

Khoảng 20 giờ ngày 20-6-2007, Hoàng Ngọc Mạnh đi cùng Nam (là bạn Mạnh; không xác định được địa chỉ) lên Hà Nội gặp Đồng Xuân Phương thống nhất là sẽ đánh anh Soi vào ngày 21-6-2007; sau đó Phương đưa thêm 500.000 đồng để Mạnh thuê chỗ ngủ. Đến khoảng 9 giờ ngày 21-6-2007, Phương dẫn Mạnh và Nam đến đoạn đường anh Soi sẽ qua để đi họp vào đầu giờ buổi chiều hôm đó; rồi quay về Công ty. Khoảng 11 giờ, Hoàng Ngọc Mạnh đến quán nước tại ngã ba quốc lộ 5 - 1B (quán của chị Phạm Thị Miến) thuê điện thoại di động của chị Miến gọi điện thoại cho Đồng Xuân Phương yêu cầu mô tả đặc điểm nhận dạng và thông báo số điện thoại di động của anh Soi; Phương đã thực hiện theo yêu cầu của Mạnh. Đến khoảng hơn 13 giờ chiều, Mạnh lại thuê điện thoại di động của chị Miến gọi cho Phương thông báo là đã nhận dạng được anh Soi và Mạnh sẽ thực hiện một mình vì hiện Nam đã bỏ đi đâu không thông báo lại, Đồng Xuân Phương đồng ý.

Khoảng 14 giờ 16 phút cùng ngày, Mạnh đã thuê máy điện thoại di động của chị Miến gọi điện thoại hẹn gặp anh Soi tại khu vực đúc dầm bê tông. Khi anh Soi đến, Mạnh đã dùng dao nhọn chuẩn bị từ trước đâm 02 nhát vào mặt sau đùi phải, làm anh Soi chết.

Tại Bản giám định pháp y số 146/PC21-PY ngày 17-7-2007, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: nạn nhân bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía trên xuyên vào cơ đùi 3cm. Vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch đùi sau gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân chết: sốc mất máu cấp không hồi phục do vết thương động mạch.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra Đồng Xuân Phương còn khai: ngoài lý do mâu thuẫn giữa bị cáo và anh Soi, việc thuê đâm anh Soi còn có nguyên nhân do bị anh Ngô Văn Toản (là Phó Ban điều hành dự án cầu Thanh Trì) kích động, vì trước đó anh Toản cũng có mâu thuẫn với anh Soi. Cơ quan điều tra đã lấy lời khai của anh Toản, nhưng anh Toản không thừa nhận việc này. Kết quả điều tra không có cơ sở kết luận anh Toản có liên quan đến vụ án.

Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã có quyết định truy nã và quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Trong quá trình điều tra, cán bộ và Công ty cổ phần xây dựng 204 đã tự nguyện quyên góp, trợ cấp cho gia đình người bị hại tổng cộng 123.000.000 đồng, trong đó có chi phí mai táng 63.000.000 đồng và 03 sổ tiết kiệm cho gia đình anh Soi, với tổng số tiền gửi là 60.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 164/2008/HSST ngày 17-11-2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt Đồng Xuân Phương 17 năm tù về tội “Giết người”.

Buộc Đồng Xuân Phương bồi thường cho gia đình người bị hại tiền tổn thất tinh thần là 32.400.000 đồng và cấp dưỡng hàng tháng cho 02 con và mẹ người bị hại.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Đồng Xuân Phương kháng cáo đề nghị xem xét lại vụ án.

Đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Nguyễn Thị Thanh kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi thường đối với bị cáo.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 262/2009/HSPT ngày 05-5-2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội căn cứ khoản 1 Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự, hủy Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để điều tra lại theo thủ tục chung.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 167/2010/HSST ngày 31-3-2010, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt Đồng Xuân Phương 17 năm tù về tội “Giết người”.

Buộc Đồng Xuân Phương bồi thường các khoản gồm: chi phí mai táng 34.583.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần cho vợ con người bị hại tổng số là 39.000.000 đồng và cấp dưỡng hàng tháng cho mẹ và con người bị hại.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02-4-2010, Đồng Xuân Phương kháng cáo xin giảm hình phạt và đề nghị xem xét lại vụ án vì chưa bắt được Mạnh nên không có đủ căn cứ khẳng định việc Mạnh đâm chết anh Soi.

Ngày 13-4-2010, vợ người bị hại là chị Nguyễn Thị Thanh kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi thường đối với bị cáo.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 475/2010/HSPT ngày 15-9-2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội áp dụng các điểm m, n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt Đồng Xuân Phương tù chung thân về tội “Giết người”; buộc Đồng Xuân Phương bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh thần là 43.800.000 đồng và giữ nguyên các quyết định khác về bồi thường thiệt hại.

Tại Kháng nghị số 13/KN-HS ngày 22-7-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về các phần: tội danh, hình phạt và án phí hình sự phúc thẩm đối với Đồng Xuân Phương; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Căn cứ vào các lời khai nhận tội của bị cáo Đồng Xuân Phương trong quá trình điều tra và tại các phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm; lời khai và kết quả nhận dạng của những người làm chứng về các đối tượng liên quan đến vụ án; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản giám định pháp y cùng các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án; có đủ căn cứ kết luận do mâu thuẫn trong sinh hoạt, Đồng Xuân Phương đã thuê Hoàng Ngọc Mạnh và Đoàn Đức Lân dùng dao đâm anh Nguyễn Văn Soi, với mục đích gây thương tích cho nạn nhân để trả thù. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; có căn cứ xác định về mặt chủ quan, Phương chỉ muốn gây thương tích cho anh Soi mà không muốn tước đoạt tính mạng, cũng không muốn thuê Mạnh đâm bừa, đâm ẩu vào anh Soi để mặc mọi hậu quả xảy ra. Vì thế, bị cáo chỉ yêu cầu tấn công vào chân, tay mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể, là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Khi thực hiện tội phạm, Mạnh đã đâm 02 nhát đều vào đùi nạn nhân theo đúng yêu cầu của Phương. Hành vi phạm tội của Hoàng Ngọc Mạnh khó thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra. Việc nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp không hồi phục là ngoài ý muốn của Đồng Xuân Phương và đồng phạm. Hành vi của Đồng Xuân Phương thuộc trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Đồng Xuân Phương về tội “Giết người” là không đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 475/2010/HSPT ngày 15-9-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về các phần: tội danh, hình phạt và án phí hình sự phúc thẩm đối với Đồng Xuân Phương; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

2. Tiếp tục tạm giam Đồng Xuân Phương cho đến khi Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội thụ lý lại vụ án.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

"Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; có căn cứ xác định về mặt chủ quan, Phương chỉ muốn gây thương tích cho anh Soi mà không muốn tước đoạt tính mạng, cũng không muốn thuê Mạnh đâm bừa, đâm ẩu vào anh Soi để mặc mọi hậu quả xảy ra. Vì thế, bị cáo chỉ yêu cầu tấn công vào chân, tay mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể, là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân. Khi thực hiện tội phạm, Mạnh đã đâm 02 nhát đều vào đùi nạn nhân theo đúng yêu cầu của Phương. Hành vi phạm tội của Hoàng Ngọc Mạnh khó thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra. Việc nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp không hồi phục là ngoài ý muốn của Đồng Xuân Phương và đồng phạm. Hành vi của Đồng Xuân Phương thuộc trường hợp phạm tội cố ýgây thương tích dẫn đến chết người, quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Đồng Xuân Phương về tội “Giết người ” là không đúng pháp luật.”

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006