Luật Sư Chuyên Hình Sự

Tư Vấn Về Tội Cố Ý Gây Thương Tích

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

 Quy định của Luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2017 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
Theo quy định tại Điều 134 BLHS sửa đổi năm 2017 thì. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”.

Bài Bào Chữa Luật Sư Trần Minh Hùng Về Tội Trộm Cắp Tài Sản

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

                 ĐOÀN LUẬT SƯ TP.HCM

         VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                    Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Quận 6, TP.HCM

Chi nhánh:     5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai

Điện thoại: 08.38779958; Fax: 08.38779958

www.luatsugiadinh.net.vn

 

BÀI BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRẦN MINH HÙNG – TRƯỞNG VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH CHO BỊ CÁO LÝ KIM LONG BỊ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI TRUY TỐ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN.

          Tôi luật sư Trần Minh Hùng – Trưởng văn phòng luật sư Gia Đình – Đoàn luật sư TP.HCM.

          Tôi bào chữa cho bị cáo Lý Kim Long với nội dung như sau:

Tôi cho rằng việc Viện kiểm sát tỉnh Đồng Nai kết tội bị cáo Lý Kim Long khi chứng cứ buộc tội còn yếu, chưa có căn cứ, lời khai của người làm chứng, bị hại, người liên quan, bị cáo, vật chứng mâu thuẫn nhau, bất nhất, chưa đầy đủ, chưa khách quan, chưa toàn diện, thiếu chứng cứ buộc tội. Kết luận giám định chưa đầy đủ, giám định thiếu, vật chứng đưa vào vụ án chưa đúng, căn cứ kết tội dựa vào các cuộc điện thoại dựa trên số emei để để kết tội bị cáo, dựa vào kết quả xác minh của Công ty mobifone để kết tội bị cáo trộm cắp tài sản là thiếu căn cứ, thiếu thuyết phục, khám nghiệm hiện trường không chính xác, thực nghiệm điều tra không đúng và có dấu hiệu oan sai vì những căn cứ sau:

Về diễn biến vụ việc: Do vụ án đã được Lý Kim Long trình bày rõ tại phiên tòa nên tôi không tường thuật lại.

Về nội dung:

Lời khai của Lý Kim Long mâu thuẫn nhau với chính mình, bất nhất, mâu thuẫn với các lời khai, vật chứng khác, chứng khác của vụ án.

Lý Kim Long khai nhận bị ép cung, bị đánh đập, bị dụ cung, bị trích xuất ra khỏi trại tạm giam B5 sau giờ hành chính để cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Đồng Nai đưa về phòng PC45 lấy lời khai và bị đánh đập để ép nhận tội, sự việc này Long khai có trình báo với giám thị, quản giáo trại giam B5 nhưng không được lập biên bản khi nhận bị cáo về trại tạm giam B5.

Long lúc khai đi xe buýt để trộm tài sản, nhưng lúc lại khai đi xe máy hiệu serius để trộm. Việc Long khai không trộm cắp tài sản, không dùng xe serius trộm cắp tài sản là phù hợp với lời khai của bà Lan khi bà Lan khai sáng 30/4/2017 bà lấy xe serius đi chợ về để xe trước nhà và Long không lấy xe nào đi đâu mà ở nhà.

Long khai tại bản khai bút lục số 38 ngày 12/5/2017 là Long ở nhà, không đi đâu cả.

Nhưng bản khai ngày 5/5/52017 Long khai đi trộm tài sản bằng xe buýt nhưng cuối phần bản khai Long ghi là “ghi theo người hướng dẫn” bút lục 39. Vậy rõ ràng có sự mớm cung, ép cung khi lấy lời khai của Long.

         Long lúc khai đi cùng vợ là Mai Thị Kim Cương trộm tài sản và nhờ vợ trông xe nhưng lúc lại khai đi 1 mình rồi nhớ 1 em bé trông xe rồi cho 1 triệu đồng, đưa điện thoại cho Cháu bé để liên lạc chứ không phải nhờ vợ trông xe, Long không khai đưa điện thoại của ai, số sim bao nhiêu nhưng cơ quan điều tra lại xác định Long liên hệ số điện thoại cho bà Lan để liên lạc trộm cắp tài sản. Đây là những lời khai không những mâu thuẫn mà thấy rất khó tin đối với 1 vụ trộm hàng tỷ đồng. Cơ quan điều tra vẫn chưa làm rõ là Long có mang hay lấy điện thoại của bà Lan và giao cho ai? Giao cho cháu bé hay giao cho Cương để liên lạc vào trộm tài sản nhưng cơ quan điều tra chưa có kết luận cụ thể nhưng đã kết luận Long trộm tài sản bà Cúc.

Long khai dấu tiền sau nhà nhưng vẫn chưa được cơ quan điều tra xác minh thu thập.

Long lúc khai thừa nhận trộm tài sản nhưng lúc lại khai không phải là người trộm tài sản, việc Long khai trộm tài sản là do bị cơ quan điều tra ép khai nhận tội. Việc Long khai bị ép cung và không trộm tài sản phù hợp với lời khai của vợ là bà Mai Thị Kim Cương. Hơn nữa trong bản khai ngày 12/5/2017 Long khai là Long khai theo hướng dẫn của cơ quan điều tra là Long trộm tài sản.

Long khai không đưa cho Cương bất kỳ chiếc điện thoại nào, lời khai này phù hợp với lời khai bà Lan (mẹ Long) và với bà Cương (vợ Long). Cả bà Lan và Cương đều khai Long không đưa bất kỳ điện thoại nào cho Cương và bà Lan. Bà Lan cũng khai Long không lấy điện thoại của bà để đi trộm tài sản như trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra kết luận trong kết luận điều tra.

Long khai ngày 30/4/2017 ở nhà sau đó ngày 1/5/2017 đi Vũng Tàu, tối đi nhậu. Lời khai này phù hợp với lời khai bà Cương, phù hợp với lời khai Vợ chồng Oanh, phù hợp với lời khai bà Lan. Điều này có bằng chứng ngày xảy ra có vụ trộm cắp Long ngoại phạm.

Long khai về vấn đề thực nghiệm điều tra: Một mình Long không thể trộm cắp tài sản, phá hủy 2 két sắt, tủ gỗ, phá ống thông sáng cửa nhà vệ sinh, cửa sổ, đi mua xè beng...trong vòng khoảng 2 tiếng đồng hồ trong khi theo như kết luận phòng kỹ thuật hình sự tại công văn số 48 công an Đồng Nai vụ trộm nhận định vụ trộm phải từ 2-4 người trở lên. Long không thể 1 mình chui qua cưa thông sáng phòng vệ sinh vì quá cao và quá nhỏ của cửa này Long không thể vào 1 mình. Vì khi ra ngoài theo bản ảnh hiện trường cũng như theo thực nghiệm điều tra thì phải có ghế để phía trong nhà vệ sinh mới ra được thì làm sao ở ngoài vào được?

Long bị gãy vai sống, 1 mình không thể đưa đẩy két sắt như Long khai

1 cái xè beng, 1 con dao, 1 thanh sắt không thể phá được két sắt. Còn dao không thể dùng để cạy két nhắn như trong hồ sơ vụ án nhận định và kết luận.

Long không thể chui vào cửa thông sáng quá nhỏ khi nó rất cao và bên ngoài Long phải kê ghế cao mới đập bể thì khi chui vào sẽ bị té, do quá cao và nguy hiểm tính mạng, Long chắc chắn không chui vào được với độ cao và lỗ nhỏ như vậy, sẽ không có đà để nhảy xuống nền như biên bản thực nghiệm điều tra miêu tả. Cơ quan điều tra cũng không miêu tả Long chui vào thế nào mà chỉ nói đưa ghế đột nhập vào. Điều này thể hiện rất mơ hồ, không rõ ràng vấn đề thực nghiệm điều tra.

Long Khai đưa vàng, USD cho Oanh giữ nhưng Oanh khai không giữ và cơ quan điều tra đã khám xét nhà Oanh và cả nhà Long nhưng không tìm ra vàng, USD, tài sản do vậy lời khai này mâu thuẫn, bất nhất và không thể tin cậy.

Long khai dấu tiền, tài sản tại sân gofl nhưng cơ quan điều tra đã trích xuất Long đi chỉ chỗ nhưng vẫn không phát hiện được chỗ chôn (trong khi chôn thì phải có dấu) và khi đã chôn thì không thể trôi được. Long không thể dấu mà còn có thể để người khác lấy hay bị nước cuốn trôi. Những lời khai này khó tin và khó chấp nhận, rất mơ hồ, không có bằng chứng.

Lời khai Mai Thị Kim Cương: Cũng như Long, Cương khai bị ép cung, Cương khai Cương bị cơ quan điều tra bắt khai là điện thoại IP6 màu vàng do Long đưa, bắt khai Cương đi cùng Long xe serius trộm tài sản bà Cúc tại Long Khánh. Nhưng sau này bình tĩnh được Cương khai lời khai Cương là không đúng, bị ép cung và bác bỏ toàn bộ lời khai trước đó.

Cương khai bà Lan không lấy chiếc điện thoại nào của Cương, khai Long không kêu tháo sim ra...lời khai này phù hợp với lời khai của Long khi không bị ép cung.

Cương thì khai mâu thuẫn: Trong hồ sơ Cương khai Long đưa điện thoại cách đây 2,3 ngày nên rút sim ra nhưng có lúc Cương lại khai khi công an mời lên thì Long dặn Cương rút sim trong điện thoại ra. Cương hiện nay bị ung thư giai đoạn cuối (xạ trị lần 8), nên sức khỏe và tinh thần không ổn định, những lời khai của Cương cũng không đáng tin cậy.

Cương khai ngày 4/5/2017 Cương khai chiếc điện thoại IP6 Long đưa là do Cương cho rằng ngày 4/5/2017 bị cơ quan điều tra đánh đập ép khai nên Cương mới khai điện thoại IP 6 do Long đưa theo lời khai công an.

Sau này bản khai ngày 13/5/2017 Cương khai lại là Cương không dùng bất cứ chiếc điện thoại nào Long cho chỉ dùng 1 chiếc điện thoại duy nhất đã bị cơ quan điều tra giữ. Bản khai ngày 4/5/2017 Cương bị đánh đập và bị ép nên khai không đúng.

Lời khai ngày 9/5/2017 Cương khai chồng không đưa điện thoại nào cả.

Bà Cúc đi chơi sao không đem điện thoại đi mà lại để ở nhà? Đây là điều hết sức vô lý.

Trong khi theo hồ sơ thì chỉ có 2 đứa con bà Cúc cung cấp giấy mua vàng…nhưng cũng không phải là chứng cứ duy nhất và đáng tin cậy. Tiền lương của ông Buôn theo xác nhận của ngân hàng không đến 200 triệu nhưng bà Cúc khai mất tiền mặt 200 triệu là tiền lương Buôn đưa bà Cúc giữ là không đúng. Theo cơ quan xác nhận lương cho ông Buôn cũng không phải 200 triệu như bà Cúc khai. Theo chứng từ rút ngân hàng ngày 10/4/2017 và ngày 17/4/2017 có xác nhận của công ty nơi Buôn làm việc và xác nhận ngân hàng thì số tiền không đến 200 triệu mà chỉ có số tiền: 86.040.000 đồng và 53.065.400 đồng chứ không phải 200 triệu như bà Cúc khai.

Bà Cúc khai mâu thuẫn khi khai mất 4000usd lúc khai mất 2000usd.

2 lời khai cách nhau tới 2 tháng Cúc mới khai lại là đã tìm lại được 2.000 USD là rất vô lý và không thuyết phục (lời khai ngày 1/5/2017 khác với lời khai ngày 18/7/2017).

Đơn tố cáo bà Cúc không thấy ghi ngày tháng, không biết bà Cúc tố cáo khi nào?

Sao ngay khi mới về thấy mất đồ ngày 30/4/2017 bà Cúc không báo công an xuống ngay để khám nghiệm hiện trường và phong tỏa hiện trường mà đến ngày 1/5/2017 mới khám nghiệm hiện trường?

Đơn tố cáo không có ghi ngày tháng chỉ ghi giá trị tài sản: 1.1 tỷ nhưng sau này lại tăng lên. Những điều này thể hiện rất mâu thuẫn.

Bà Thảo con bà Cúc khai mâu thuẫn, lúc khai mất tới 2 lượng vàng, lúc khai mất 153 triệu. Nói hoang mang khai mâu thuẫn là vô lý vì số tiền khai chênh lệch rất nhiều.

Dung (con bà Thảo) cũng khai mâu thuẫn nhau, lúc khai mất nhiều, lúc khai mất ít.

Tiền USD, euro, nhân dân tệ, vàng của bà Cúc mua ở đâu, nguồn gốc đâu mà cơ quan điều tra chưa làm rõ. Chưa có chứng từ thể hiện nguồn gốc số tài sản này mà chỉ dựa vào lời khai của bà Cúc, Muôn, Thảo, Dung.

Số tiền bà Cúc khai mất mâu thuẫn và không thống nhất, khi khai mất 1,1 tỷ lúc khai mất nhiều hơn số tiền này…đây là điều mâu thuẫn, lời khai bất nhất không đáng tin cậy.

Bà Nguyệt khai không đáng tin cậy khi cho rằng Long mua xè beng từ ngày 30/4/2017 đến ngày 5/5/2017 cơ quan điều tra lấy lời khai mà Nguyệt vẫn nhớ Long mặc quần màu tối, sáo sáng, có áo khoác. Chị Nguyệt không thể nhớ hết chi tiết khi vụ việc qua 5 ngày mà vẫn nhớ cụ thể từng người mua hàng như vậy là rất khó tin. Lời khai bà Nguyệt không đáng tin cậy. Cơ quan điều tra không làm biên bản đối chất giữa Long và Nguyệt mà chỉ cho Nguyệt nhận dạng Long qua hình ảnh là điều không chấp nhận được, bà Nguyệt cần đối chất với Long để làm rõ sự việc. Cần làm rõ bà Nguyệt bán hàng có ghi hóa đơn bán lẻ, sổ sách không? Chắc chắn có cần thu thập sổ sách bán hàng hàng ngày từ ngày 30/4/2017 đến ngày 5/5/2017 để làm rõ bà Nguyệt có bán xè beng cho Long không? Bà Nguyệt mua xè beng này của ai? Cần làm rõ nguồn gốc số xà beng bà Nguyệt mua của ai, thu thập các chứng từ, sổ sách bà Nguyệt mua xè beng từ ai để đối chứng và làm rõ vụ việc này nhưng cơ quan điều tra chưa làm rõ.

Nguyệt khai khó tin là mới 10h Nguyệt đã nghỉ trưa, Long vào mau két sắt. Nguyệt khai đóng cửa Long về đi đám cưới, đám cưới ai có thật không?

Chị kêu mới lấy hàng về lấy của ai? Hóa đơn?

Xè beng có chiều dẹt không? Chiều dẹt khoảng mấy cm?

Có phải 6cm không?

Những lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan như Oanh, Vinh, Cương, Loan…chứng tỏ cho sự việc ngày 30/4/2017 Long ở nhà, không đi Long Khánh.

Bởi ngày 30/4/2017 gia đình Long có người tới cầm đồ tên Tý đi cùng 1 người phụ nữ tên Hạnh (hiện gia đình Long vẫn còn giữ CMND của người này và biên nhận cầm đồ ngày 30/4/2017 của người này). Hiện nay gia đình Long vẫn giữ chứng minh của người này nhưng cơ quan điều tra chưa làm rõ lấy lời khai của người này hôm ngày 30/4/2017 có gặp Long không? Long có nhận cầm đồ của 2 người này không để làm sáng tỏ vụ án.

Lời khai chiếc điện thoại Long cho bà Lan:

Long có 1 chiếc điện thoại IP6 bị hư, đem ra tiệm sửa nên bà Lan mua chiếc điện thoại nokia cho Long dùng, sau khi sửa xong thì Long trả lại chiếc điện thoại cho bà Lan. Vinh khai Long cho Bà Lan là do Vinh không hiểu sự việc thấy Long đưa trả cho mẹ thì tưởng Long cho bà Lan nhưng thực chất là trả điện thoại cho mẹ.

Mẹ Long bà Lan khai không giao xe cho Long mà bà Lan tự đi chợ hôm 30/4/2017. Bà Lan không giao điện thoại cho bất kỳ ai ngày 30/4/2017, không nhận bất kỳ tài sản nào từ Long.

Bà Lan khai không cho bất kỳ ai mượn điện thoại và sim điện thoại của bà sim điện thoại bà Lan số đuôi 929 nên có thể khẳng định không có chuyện Long lấy điện thoại hay sim điện thoại bà Lan đi trộm tài sản và để chiếc điện thọai của bà Lan cho người bên ngoài để liên lạc canh chừng.

Kết luận giám định        số 2035 ngày 25/7/2017 của phân viện khoa học hình sự tại TPHCM kết luận: “dấu vết trượt xước, thủng,….do công cụ cứng, dẹt rộng 6cm có gây ra, xà beng gửi giám định có thể gây ra….”. Tức chỉ có thể chứ không khẳng định hỏng két sắt do xè beng, dao gây ra.

“Không phát hiện thấy dấu vết trượt xước trên con dao sắt kích thước 45cm x 7cm gửi giám định”. Kết quả giám định cho kết quả khác hẳn hoàn toàn so với biên bản khám nghiệm hiện trường, hình ảnh khám nghiệm hiện trường, bản ảnh thực nghiệm điều tra, biên bản thực nghiệm điều tra…Bởi theo với biên bản khám nghiệm hiện trường, hình ảnh khám nghiệm hiện trường, bản ảnh thực nghiệm điều tra, biên bản thực nghiệm điều tra thì cho rằng Long dùng Dao phá két sắt nhưng kết luận giám định kết luận con Dao không có vết xước, trầy. Nếu dùng dao (đây là con dao hiện trường) thì phải có vết xước nhưng giám định lại không có là rất vô lý nhưng vẫn chưa được làm rõ và kết tội Long vô căn cứ. Điều đó cho thấy hồ sơ kết tội Long mâu thuẫn nhau và không đúng, không khách quan.

Mẫu vết máu giám định không xác định và kết luận được cùng AND với Long và các đối tượng theo yêu cầu giám định tại hiện trường, tóc không phải của Long và Cương. (theo kết luật giám định số 1591 + 1604/C54B ngày 1/6/2017 của PVKHHS tại TPHCM) điều đó chứng tỏ người trộm tài sản là người khác không phải Long. Kể cả mẫu tóc của các thành viên gia đình bà Cúc, gia đình Long, Cương (13 đối tượng)…cũng không giám định ra bất kỳ tóc của ai trong 13 đối tượng, điều đó chứng tỏ Long không phải là người đột nhập vào nhà ông Buôn, bà Cúc để trộm tài sản, mà người trộm là 1 người khác mà cơ quan điều tra cần phải xác định máu, tóc mang AND của ai thì mới có căn cứ kết tội.

Vết máu trên tường, tóc trong nhà, nơi hiện trường không phải của Long, không phải của Cương…kết quả giám định thì vết máu trên tường, tóc tại hiện trường không cùng với AND của Long và Cương cũng như 11 đối tượng còn lại nên không có căn cứ kết tội Long, người thực hiện hành vi phạm tội là thủ phạm khác phải tìm ra người cùng AND trùng với vết máu trên tường và trùng với tóc tường mới có căn cứ kết tội ai trộm cắp tài sản.

Cơ quan điều tra chưa yêu cầu giám định dấu vân tay, chân trên nền nhà, cục đá, cuốc gỗ, thanh sắt, cửa, trên tường, bờ rào, cổng, trên 2 con dao…để đối chiếu với vân tay của Long…xem có phải của Long không. Khi chưa giám định chưa thể khẳng định Long trộm tài sản. Đây là sự suy luận vô căn cứ của CQĐT và VKS.

Công văn 6235 của Sở tài chính thuộc UBND tỉnh Đồng Nai ngày 8/11/2017 khẳng định “không giám định được két sắt do không rõ model, kích cỡ, không định giá được khi không biết tình trạng thực tế nhà đục phá thế nào”…như vậy cơ quan cảnh sát điều tra cũng không cung cấp được cho Sở tài chính hiện trạng nhà bị đục phá thể nào thì làm sao kết luận là Long đục phá nhà để đột nhập vào trộm tài sản? Không giám định được két sắt sao lấy ý kiến của cơ quan có thẩm quyền 1 mình Long có phá được 2 két sắt? Cơ quan điều tra cũng chưa yêu cầu giám định tư pháp xem 1 mình Long với từng dụng cụ Dao, Xè beng, thanh sắt thì có phá được 2 két sắt trong đó 1 két sắt nặng tới 200kg. Két sắt nặng tới 200 kg, Long bị bệnh tai nạn ở vai chưa thôi nên 1 mình Long không thể khiêng lật 2 két sắt như cáo trạng nêu.

Tôi yêu cầu cần trưng cầu giám định tư pháp việc 1 mình Long có phá được 2 két sắt không? 1 mình Long có thực hiện được vụ trộm này không? Bởi theo Phòng kỹ thuật hình sự thì vụ trộm phải có từ 2-4 người.

Ngay sau khi về phát hiện mất tài sản sao bà Cúc, Buôn không báo công an để công an xuống chụp ngay ảnh hiện trường, phong tỏa hiện trường, thu thập gối, mền, ướt nền nhà, khung sắt, chứng cứ, vật chứng…còn nham nhở tại hiện trường….nhưng những hình ảnh khám nghiệm hiện trường này không có mà chỉ khi thực nghiệm điều tra mới có ảnh. Ngay cả việc thực nghiệm điều tra lần đầu thì Long không đồng ý.

Điện thoại bà Cúc khi có số emei số đuôi: 880 khi thì 8801.

Cáo trạng cho rằng Long ném đá cho chó ngưng sủa là vô lý, không có con chó nào ném đá mà chó ngưng sủa, càng ném càng sủa thêm, sao không thực nghiệm điều tra chi tiết này để xác định? Vì cho rằng ném cho chó ngưng sủa để vào trộm tài sản là vô lý.

Long đi ăn trộm mà không biết địa điểm…là rất vô lý. Đi từ Trảng Bom sang Long Khánh trộm là hết sức vô lý đối với 1 vụ trộm hơn 1 tỷ đồng.

Đề nghị trích xuất các camera gần nhà bà Cúc để thu thập, điều tra có hình ảnh của Long đi tới địa điểm mất tài sản không nhưng cơ quan điều tra vẫn chưa làm việc này.

Không có bất kỳ bằng chứng nào Long sử dụng điện thoại bà Cúc có số emei đuôi: 880, đề nghị VKS cung cấp bằng chứng, chứng cứ chứng minh Long sử dụng điện thoại bà Cúc có số emei cuối: 880.

Trong khi chiếc điện thoại có số emeil đuôi 880 mà cơ quan điều tra cho rằng Cương sử dụng thì cũng không có bằng chứng mà chỉ dựa trên xác mình của Tổng đài điện thoại Mobifone chứ chủ thuê bao không phải của Cương, không phải của Long và thời gian dùng tin nhắn, điện thoại có số emei có nhiều thời điểm vô lý như ngày 4/5/2017 cơ quan điều tra mời Cương làm việc hầu như cả ngày và gần cả buổi sáng nhưng theo kết quả cung cấp của bên Công ty Mobifone thì lúc 9 55 phút 29 giây ngày 4/5/2017 thì làm sao Cương có thể nhắn tin điện thoại và điện thoại cho người khác bằng chiếc điện thoại của bà Cúc được vì tại thời điểm này Cương đang làm việc với cơ quan điều tra. Đây là điều vô lý, mâu thuẫn mà cơ quan điều tra vẫn chưa làm rõ.

Yêu cầu mời đại diện hợp pháp bên Công ty điện thoại Mobifone tham gia vụ án để làm sáng tỏ các cuộc tin nhắn, điện thoại của điện thoại bà Cúc vì các hồ sơ trong hồ sơ tôi cảm thấy chưa tin tưởng, cần phải hỏi tại phiên tòa.

Không có bất kỳ bằng chứng nào để khẳng định Cương gắn sim của mình vào chiếc điện thoại bà Cúc có số emei là: 356956067434880 để điện thoại và nhắn tin cho người khác. Không có bằng chứng Cương là người sử dụng chiếc điện thoại có số emei này. Mà chỉ dựa vào sự suy đoán và dựa vào lời khai của Long và Cương trong khi 2 người này thừa nhận bị ép cung. Hơn nữa lời khai của bị cáo không phải là lời khai duy nhất để buộc tội bị cáo mà việc chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng.

Số thuê bao 01283211545 chủ thuê bao là Lê Thị Huyền Chi không phải chủ thuê bao đứng tên là Lý Kim Long.

Việc dựa vào danh sách gọi, nhắn tin của thuê bao 01283211545 đến thuê bao 01217631929 (chủ thuê bao Lê Ngọc Phương Lan) để kết tội Long là không có căn cứ. Vì không có căn cứ các cuộc gọi, tin nhắn này thể hiện Long trộm tài sản. Cơ quan điều tra cũng không thu thập được nội dung trao đổi qua điện thoại hay tin nhắn giữa Long và Cương, giữa Long với bà Lan hay bà Oanh mà cơ quan điều tra khẳng định Long Trộm tài sản là sự suy đoán. Nội dung tin nhắn cũng không có, cuộc gọi thì không biết cuộc gọi đó có nội dung gì làm sao thể hiện Long trộm tài sản bà Cúc. Các cơ quan điều tra chỉ dựa vào lời khai trong khi lời khai các bị can, người liên quan khai bị ép cung nên không có căn cứ buộc tội. Hơn nữa lời khai của Long, Cương mâu thuẫn nhau, không thống nhất, Long khai khai theo cơ quan điều tra hướng dẫn nên theo tôi có căn cứ Long, Cương bị ép cung như lời khai họ đã khai.

Khi thực nghiệm điều tra chưa có luật sư chứng kiến. Yêu cầu việc thực nghiệm điều tra phải có luật sư vì thực nghiệm không khách quan.

Cơ quan điều tra cho rằng Long rửa két sắt, xè beng…thì có thể không giám định được vân tay nhưng còn 2 con dao, cục đá, cái quốc, thanh sắt, cái ghế gỗ và inox, bức tường, hàng rào, cổng…vẫn còn giám định được dấu vân tay, vân chân nhưng Cơ quan điều tra không giám định. Còn máu, tóc tại hiện trường thì giám định không phải là của Long, Cương.

Ngày 9/5/2017 cơ quan điều tra trích xuất Long đi tìm vật chứng cho rằng Long trộm cất dấu tại sân gofl nhưng tìm cũng không có, không có tài sản.

Long không thể cất dấu tài sản mà chỉ mấy ngày sau lại tìm không được là rất vô lý.

Nhà Long chỉ có mấy anh em, cơ quan điều tra đã xác minh hết không có ai cất dấu tài sản, Long không gửi đâu. Vậy bằng chứng nào nói Long trộm cắp tài sản, số tài sản lớn Long giữ ở đâu vẫn chưa làm rõ, số tiền dùng vào mục đích gì nếu Long trộm cơ quan điều tra chưa tịch thu được và chưa làm rõ. Ngay sau mấy ngày Long đã bị bắt nên không có chuyện Long có thể tẩu tán được cho bất kỳ ai. Bà Oanh cũng khai không nhận bất kỳ tài sản gì. Long cho rằng việc khai để nơi bà Oanh là do bị ép cung khai như vậy vì bà Oanh, bà Lan đã phủ nhận hoàn toàn và không có căn cứ.

Cơ quan điều tra chỉ dựa vào các cuộc gọi, tin nhắn của điện thoại bà Cúc, dựa vào văn bản xác minh của tổng đài điện thoại để xác định vị trí của Cương ở và định vị và suy đoán do Cương đang sử dụng điện thoại bà Cúc từ đó lấy lời khai Cương và từ lời khai Cương kết tội Long là vô lý, thiếu chứng cứ, thiếu thiếu phục và suy đoán không có căn cứ. Theo luật tố tụng hình sự chỉ có nguyên tắc suy đoán vô tội chứ không có nguyên tắc suy đoán có tội khi không có bằng chứng, chứng cứ kết tội thì phải trả tự do cho bị cáo, tuyên bị cáo vô tội. Hơn nữa cơ quan điều tra cũng không có biên bản phạm tội quả tang, bắt quả tang Long hay Cương đang sử dụng điện thoại bà Cúc và cũng không thu giữ được điện thoại bà Cúc có số emei cuối 880 hiện ai đang giữ. Hơn nữa kể cả 1 người có thể sử dụng điện thoại của 1 người khác nhưng không hẳn người đó trộm cắp tài sản khi chiếc điện thoại đó có thể do mình mua, nhận tặng cho từ người khác, từ tiệm cầm đồ do người khác trộm chứ không phải do mình trộm. Việc chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng nhưng cho đến hôm nay, theo hồ sơ quan tố tụng vẫn chưa có bằng chứng, chứng cứ chứng minh Long phạm tội. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết luận giám định khi vết máu, tóc tại hiện trường, máu trên bức tường mà kẻ đột nhập vào không phải của Long.

Hồ sơ mất bút lục số 222 và 1 số bút lục khác là bút lục gì để nghị Viện kiểm sát và Hội đồng xét xử làm rõ bút lục mất có có nội dung gì, tại sao mất?

Đề nghị thực nghiệm điều tra lại xem 1 mình Long có thể chui vào lỗ cửa thông sáng nhà vệ sinh để vào trộm tài sản không vì của này cao tới 2.5 mét, cao và chiều rộng chỉ có 0.78 x 0.38 nên Long không thể chui vào vì chui vào sẽ té vì không có đà, không thể chui vào trừ khi có ghế cao phí trong vì theo hiện trường Long chui phải chui đầu vào trước mà phía trong không có ai đỡ, mà tường từ đất lên cửa cao tới 2.5 m thì Long không thể vào được khi của thông sáng này quá nhỏ Long không thể xoay người lại cho chân vào trước. Hơn nữa hình ảnh hiện trường có chiếc ghế phía trong nhà vệ sinh khi Long chưa vào thì sao đã có ghế?

Liệu cơ quan chức năng không chứng minh được hành vi phạm tội nên hợp thức hóa hồ sơ và lời khai cho phù hợp?

Tài sản cho rằng Long trộm được rất nhiều sao theo thực nghiệm điều tra Long chỉ để trước xe, không cột hay ngoắc vào xe. Rất khó tin đây là hành vi trộm tài sản của Long.

Tại bút lục 245 cho rằng Long dấu điện thoại tiền tại gần sân golf nhưng hồ sơ lại cho rằng Cương sử dụng điện thoại bà Cúc để liên lạc cho Long. Đây là những điều rất mâu thuẫn.

Chiếc điện thoại bà Cúc mua ở đâu? Chứng từ mua ở đâu? Cơ quan điều tra chưa làm rõ.

Theo xác minh thì lúc 9h30 ngày 30/4/2017 có cuộc gọi từ số Long sang số bà Lan chứ không có gọi cho Cương.

Long có viết bất kỳ là thư nào ngày 23/5/2017 cho bà Oanh là gửi tiền trộm vàng, tiền nơi chị Oanh không? Long khai không có sao lại có trong hồ sơ? Liệu có phải chữ ký và chữ viết của Long trong bức thư này?

Theo biên bản khám xét nhà Oanh, Long không thu được bất kỳ chiếc điện thoại nào có emei 880 của bà Cúc.

Cơ quan điều tra vẫn chưa thu thập và làm rõ được chiếc điện thoại hiện đang ở đâu? Do ai giữ?

Cơ quan điều tả chưa làm rõ ai là người canh chừng cho Long vào trộm tài sản nhưng vẫn kết tội Long là thiếu căn cứ, vi phạm tố tụng, vi phạm pháp luật, kết tội Long dựa trên suy đoán. Bởi Long lúc khai Cương đi cùng, Cương thì phủ nhận, Long lúc khai nhờ 1 em bé trông chừng.

Long có khai hành vi trộm cắp tài sản với Trần Văn Trọng và Bùi Bái Tử Long không?

Cơ quan điều tra đưa 2 tên phạm nhân Trần Văn Trọng và Bùi Bái Tử Long (1 người phạm tội trộm cắp tài sản, 1 người phạm tội giết người) để lấy lời khai như người làm chứng về việc Long khai và kể với 2 phạm nhân này là vi phạm tố tụng, không đáng tin cậy, lời khai của những nghi can này không thể là người làm chứng theo quy định tố tụng hình sự. Nếu đúng Long trộm tài sản thì không bao giờ kể tường tận, chi tiết như vậy cho 2 nghi can cùng buồng này. Lời khai và cách thu thập chứng cứ này không khách quan và tôi cho là vi phạm tố tụng của cơ quan điều tra khi không dựa trên chứng cứ mà dựa trên lời khai không khách quan.

Lời khai của Long không phù hợp với sơ đồ khám nghiệm hiện trường, không phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, hình ảnh khám nghiệm hiện trường, không phù hợp với báo cáo Khám ngiệm hiện trường số 48 ngày 5/5/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Đồng Nai, không phù hợp với thực nghiệm điều tra, hình ảnh thực nghiệm điều tra và không phù hợp thực tế, mâu thuẫn với các lời khai khác và mâu thuẫn với kết luận giám định.

Trên thân thể Long không bị trầy xước khi bị bắt nên vết máu trên tường không phải của Long.

Số tiền 8.600 do cầm đồ từ bà Thủy đã có trong hồ sơ bà Thủy khai khớp. Nhưng kết luận điều tra lại kết luận số tiền 17.600 đồng (bao gồm 8.600 đồng) do Long đưa về là không có căn cứ.

Long có được giao các quyết định tố tụng như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định phê chuẩn của VKS ngày 15/5/2017 của cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh Đồng nai cho anh không? Có phải đúng ngày 15/5/2017 không?

Xè beng tại hiện trường chỉ có chiều rộng 2.5cm, trong khi theo kết luận giám định thì xè beng có thể gây ra vụ phá két sắt có chiều dẹt 6cm, và chỉ có thể gây ra chứ không khẳng định là do xè beng tại hiện trường gây ra.

Báo cáo Khám nghiệm hiện trường số 48 ngày 5/5/2017 của Phòng KTHS Công an đồng nai thì đã thu mẫu máu, đường vân nhưng kết quả giám định thì không phải máu trùng với AND của Long, còn dấu vân thì chưa có kết luận cụ thể của ai?

Báo cáo này khẳng định vụ trộm từ 2-4 người vì phá 2 két sắt, phá cửa thông sáng, đi mua xè beng….thì 1 mình Long không thực hiện được nhưng hồ sơ vụ án kết tội chỉ 1 mình Long phạm tội là mâu thuẫn với thực tế và mâu thuẫn với với các hồ sơ khác trong hồ sơ vụ án này.

Long hoàn thành xong vụ trộm mấy giờ hồ sơ cơ quan tố tụng vẫn chưa làm rõ vì buổi tối Long đã đi nhậu cùng gia đình tại quán Mr Nướng có đăng trên fb trực tiếp có Long.

Long khai bị ép, bị đánh đập nêu nếu trả hồ sơ phải có luật sư hoặc phải có camera ghi hỏi cung, ghi âm.

Biên bản khám xét nhà Long, Oanh ngày 5/5/2017 không thu được chiếc điện thoại và số vàng, USD, Tài sản của bà Cúc mà cơ quan điều tra kết luận Long Trộm tài sản. Đây là điều hết sức vô lý?

Đây cũng tiếp tục là bằng chứng Long ngoại phạm vụ trộm cắp tài sản.

Chỉ thu được 17.600.000 đồng là số tiền của gia đình Long và trong đó số tiền bán cầm đồ của bà Thủy 8.600.000 đồng.

Tại biên bản khám xét ngày 5/5/2017 thì không có bị can ký trong biên bản này.

Ngoài ra, tôi đề nghị mời điều tra viên, những điều tra viên Long nhắc tên đánh đập, éo cung Long tham gia vụ án để đối chất có đánh đập, ép cung Long không? Có việc trích xuất Long ra khỏi trạm giam B5 ngoài giờ làm việc không? Yêu cầu mời giám thị trạm giam B5 làm chứng.

Từ các căn cứ trên không có cơ sở tuyên Long phạm tội trộm cắp tài sản, tôi yêu cầu trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa và tuyên bị cáo vô tội, bị oan.

Kính mong xem xét chấp nhận một cách khách quan, công tâm, tránh oan sai cho bị cáo Long.

Trân trọng cảm ơn Hội đồng xét xử.

                                                Ngày …tháng…năm 2018

Trưởng Văn phòng

LS TRẦN MINH HÙNG

Luật Sư Gửi Văn Bản Kiến Nghị Cho Bị Cáo

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

                ĐOÀN LUẬT SƯ TP.HCM

       VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIA ĐÌNH

ĐT: 028.38779958

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

                Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc

-----------------

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Quận 6

       5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai

Điện thoại: 08.38779958; Fax: 08.38779958

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

                                                   

Kính gửi: CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA CÔNG AN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TÂY NINH

Đồng kính gửi: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG- TÂY NINH.

Tôi là Luật sư Trần Minh Hùng – Trưởng Văn phòng Luật sư Gia Đình – Đoàn luật sư TP.HCM                                                                    

Địa chỉ trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Quận 6, TPHCM

Chi nhánh: 5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai

Tôi là Luật sư bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo Nguyễn Văn Hòa, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm và xử phạt 05 (năm) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3, Điều 104 của Bộ luật hình sự. Sau đó bị cáo có kháng cáo và tại bản án số 51/2018/HS-PT ngày 28/5/2018 Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã tuyên hủy bản án sơ thẩm số 03/2018/HS-ST ngày 6/2/2018 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng điều tra theo thủ tục chung.

Do vụ án đã được Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh hủy và chuyển để điều tra lại.

Nay chúng tôi với tư cách là luật sư bào chữa cho bị cáo Hòa trình một số kiến nghị đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bàng và Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng để xem xét, điều tra theo quy định như sau:

          Chúng tôi yêu cầu giám định lại theo quy định vì thương tật 42% là quá cao và có dấu hiệu không chính xác, vì trong hồ sơ bệnh án tại Bệnh viện Chợ Rẫy thì bị hại Quang khai vết thương bị tai nạn giao thông, cách nhập viện 20h bị bệnh nhân bị tai nạn giao thông, chấn thương không rõ cơ chế nhập viện, kết quả chụp cắt lớp vi tính (CT) “Tổn thương giảm đậm độ thấp võ não bán cầu tiểu não (T) . Nghĩ tổn thương cũ”.

Như vậy kết luận bệnh viện rõ ràng là có cả tổn thương cũ, vết thương do tai nạn giao thông nên việc cho rằng thương tật 42% do bị cáo Hòa gây ra toàn bộ là không chính xác, có dấu hiệu oan cho bị cáo Hòa.

Như vậy, nếu bị cáo Hòa chém thì không thể bị hại Quang bị Gãy vỡ xương hàm trái, vỡ rạn hay lún thành xoan hàm. Đây là những thương tích chỉ có tai nạn giao thông gây nên chứ không thể do chém mà vỡ xương hay lún thành xoan vì kết luận giám định kết luận là vết thương di bị chém là không có căn cứ và không phù hợp với thương tích thực tế.

Kết luận giám định số 175 và công văn số 04 của Trung Tâm pháp y tỉnh Tây Ninh có nhiều điểm chưa rõ ràng, chưa đúng như không xác định tỷ lệ cộng dồn % theo như quy định về các phần trăm vết thương cụ thể.

Cơ quan tố tụng chưa làm rõ các thương tích để xác định tổn thương trên mắt, lưng, thị lực...vì vết thương Hòa gây ra không thể làm giảm thị lực cho Quang như kết quả giám định được.

Lời khai bị hại Quang mâu thuẫn với các vết thương trên cơ thể, không phù hợp với hiện trường diễn ra vụ đánh nhau, không phù hợp với ảnh hiện trường cũng như các vật, máu cuả vụ án không khớp với nhau.

Ngoài ra, Cơ quan tố tụng cũng chưa làm rõ bị hại Quang đã làm hư 2 lồng chim của bị cáo Hòa, chửi bới, nhục mạ gia đình bị cáo Hòa. Bị hại Quang không được mời mà đến để quậy phá, chửi bới mọi người, thách thức mọi người. Điều này phù hợp với lời khai của những người làm chứng nhưng không được đưa vào hồ sơ vụ án cụ thể, không được cơ quan điều tra làm rõ.

Bộ quần áo bị cáo Hòa mặc theo bị cáo Hòa bị Quang xô xát, đánh đập, xé rách quần ào Hòa làm cho Hòa rất bức xúc, bị xúc phạm và bị kích động mạnh. Nhưng bộ quần áo rách này không được cơ quan điều tra thu thập đưa vào vụ án để giải quyết làm rõ sự thật vụ án, làm rõ bị cáo Hòa bị Quang đánh như thế nào?

Con dao gây án theo bị cáo Hòa không phải là con dao trong hồ sơ vụ án, vì không còn dính máu trên con dao này. Con dao gây án theo bị cáo Hòa là Quang đã cầm và đi khỏi nhà Hòa và đã dục đi.

Mẹ bị cáo Hòa khai tại Phiên tòa là bị cáo Hòa bị Quang chửi bởi, xỉ nhục gia đình cách mạng...làm Hòa rất bức xúc.

Chưa làm rõ nguyên nhân gây án là lỗi hoàn toàn của bị hại Quang, nguyên nhân dẫn đến xô xát là do Quang không được mời mà đến, khi đến đã say rượu còn chửi bới, xỉ nhục gia đình Hòa, thách thức, xua đuổi bạn Hòa, phá lồng chim... nhưng cơ quan điều tra vẫn chưa làm rõ lỗi bị hại Quang.

Tại phiên tòa bị cáo Hòa và mẹ bị cáo Hòa khai chỉ khai theo điều tra viên, chứ không đọc rõ và hiểu bản khai.

Ngoài ra, trong hồ sơ tố tụng tại cơ quan điều tra không có hồ sơ bệnh án của bị hại Quang tại bệnh viện ban đầu Quang nhập viện là bệnh viện Củ Chi nên cần phải thu thập những hồ sơ này đầy đủ.

Từ những căn cứ nêu trên chúng tôi kính mong Cơ quan tố tụng huyện Trảng Bàng cần điều tra, thu thập đầy đủ, trung thực, khách quan, đúng pháp luật.

Yêu cầu cơ quan điều tra huyện Trảng Bàng điều tra lại, giám định lại thương tật của bị hại Quang, giám định lại thương tích, vết thương nào do tai nạn giao thông, vết thương nào bị chém, thị lực mắt kém có phải do chém, gãy vỡ xương hàm trái, vỡ rạn hay lún thành xoan hàm có phải do bị chém? Cần xác định lại tỷ lệ tổn thương cụ thể, phần % trên từng vết thương cụ thể và cộng dồn theo đúng quy định. Làm rõ tại sao trong hồ sơ bệnh án bệnh viện Chợ Rẫy có kết luận Quang bị tai nạn giao thông, vết thương cũ do đâu mà có?

Yêu cầu thu thập các chứng cứ, vật chứng đầy đủ như yêu cầu trên của chúng tôi.

Yêu cầu lấy lại lời khai của các bên, người làm chứng và đối chất cụ thể.

Yêu cầu thực nghiệm điều tra để xác định tư thế chém, xác định quá trình gây mâu thuẫn, ai có lỗi, và cụ thể hiện trường vụ án đúng như buổi xô xát nhau ngày 10/8/2017. Khi thực nghiệm điều tra phải có đầy đủ mọi người hôm diễn ra vụ xô xát.

Trên đây là một số kiến nghị của chúng tôi, kính mong Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bàng và Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng điều tra và xem xét chấp nhận kiến nghị của chúng tôi nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho bị cáo Hòa, tránh oan sai cho bị cáo, tránh xác định sai tội danh và khung hình phạt và kể cả thậm chí tránh bỏ lọt tội phạm như kiến nghị của chúng tôi. Bị cáo Hòa sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, có công với đất nước, bị cáo Hòa bị thua thiệt về học thức, nhận thức hạn chế nhưng bị hại Quang với thân hình cao to đã gây ức chế cho bị cáo Hòa, làm cho bị cáo bị kích động...nên cũng cần phải làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Kính mong Qúy cơ quan chấp nhận.

                                                          TP.HCM, ngày   tháng   năm 2018

                                                                   Trưởng văn phòng luật sư

                                                                   LS TRẦN MINH HÙNG

Đương sự được quyền bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện thời điểm nào?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Đương sự được quyền bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện thời điểm nào?

VÕ THỊ XUÂN (TAND huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang) - Nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện sau khi Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nhận, công khai chứng cứ và hòa giải thì yêu cầu đó có được chấp nhận hay không, hay đương sự phải rút đơn khởi kiện để khởi kiện thành vụ án khác ?

12 tháng 07 năm 2018 08:20 GMT+7  

Theo Điều 244 BLTTDS 2015 quy định về việc xem xét, thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện:

“1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của đương sự đã rút.”

Tình huống: Bà A khởi kiện ông B yêu cầu Tòa án công nhận diện tích 1.000m2 là thuộc quyền sử dụng của bà A. Trước đó bà A đã cất nhà kiên cố và sử dụng phần đất này nhưng chưa được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì mẹ bà A chỉ cho miệng. Tuy nhiên, trước khi mẹ bà A và ông B mất thì mẹ bà A lại làm di chúc cho ông B được đứng tên phần đất này, ông B đã đi đăng ký kê khai để được đứng tên phần này mà bà A không biết. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ thì thể hiện phần đất 1.000m2 ông B đã được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà A đã làm đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu cầu ông B hoàn lại giá trị căn nhà cho bà A để bà A trả lại đất cho ông B.

Có quan điểm cho rằng bà A cần rút đơn khởi kiện để khởi kiện thành vụ án khác để yêu cầu bồi thường giá trị căn nhà chứ không thể thay đổi yêu cầu khởi kiện trong vụ án này thành yêu cầu bồi thường giá trị căn nhà vì cho rằng vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu và đưa ra yêu cầu này sau khi Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nhận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Quan điểm thứ hai cho rằng yêu cầu của bà A là hợp lý, nếu có chênh lệch tạm ứng án phí thì cho bà A đóng thêm tạm ứng án phí và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung vì Tòa án vẫn chưa có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Điểm g khoản 2 Điều 203 BLTTDS quy định: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán…  Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn”.

BLTTDS 2015 chỉ quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không quy định số lần mà Tòa án tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Như vậy, tùy vào mỗi vụ án mà Thẩm phán giải quyết vụ án có thể tổ chức một hoặc nhiều phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Trong tình huống nêu trên với yêu cầu ban đầu của bà A, Thẩm phán đã tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần đầu, tiếp sau đó mới tiến hành trích lục hồ sơ cấp đất và đo đạc, định giá thì thể hiện phần đất tranh chấp là do ông B đứng tên quyền sử dụng đất. Sau khi Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để công khai cho đương sự biết về hồ sơ cấp đất và biết về việc đo đạc, định giá thì bà A đã có đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện.

Quan điểm Thẩm phán giải quyết vụ án cho rằng bà A nên rút yêu cầu khởi kiện trong vụ án này để khởi kiện thành một vụ án khác, yêu cầu ông B bồi thường giá trị căn nhà mà bà A đã xây dựng vì bà A thay đổi yêu cầu khởi kiện sau khi Tòa án tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải là không đúng quy định pháp luật và việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà A là vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu.

Khoản 1 Điều 244 lại quy định “Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”. Trong tình huống này căn nhà bà A nằm trên phần đất 1.000m2 đang tranh chấp, vì quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ đã thể hiện việc ông B đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên bà A mới thay đổi yêu cầu khởi kiện. Thiết nghĩ, khi giải quyết đối với diện tích 1.000m2  này thì Tòa án vẫn phải xem xét đến tài sản trên đất là ngôi nhà bà A đã xây dựng nên việc bà A thay đổi yêu cầu khởi là phù hợp với quy định của BLTTDS, tuy bà A thay đổi yêu cầu khởi kiện sau khi Tòa án tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn thay đổi yêu cầu khởi kiện trước khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử thì Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của bà A nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố  hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.

Như vậy, khi bà A thay đổi yêu cầu khởi kiện Tòa án phải xem xét yêu cầu này của bà A nếu có chênh lệch về tạm ứng án phí cần cho bà A đóng tiền tạm ứng án phí và tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung thì vụ án án sẽ được giải quyết triệt để hơn, không làm mất nhiều thời gian của đương sự. Việc đương sự có rút yêu cầu khởi kiện hay không là phụ thuộc vào sự tự nguyện của họ, còn Hội đồng xét xử sẽ phải xem xét chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của họ tại phiên tòa.

Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của độc giả và đồng nghiệp.

 Nguồn: Tạp chí tòa án nhân dân điện tử

Luật Sư Bào Chữa Quyền Lợi Cho Bị Cáo

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

 - Từ ngày 1-1-2018, Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14) chính thức có hiệu lực thi hành. Theo đó, việc áp dụng các quy định trong bộ luật này được thực hiện theo hướng dẫn của Nghị quyết số 41/2017/QH14 đã được kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XIV thông qua. Đáng chú ý, nhiều điều khoản có lợi cho người phạm tội vẫn được áp dụng...
 
Nhiều điều khoản có lợi 
 
Ngày 20-6-2017, Nghị quyết số 41/2017/QH14 về thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (Bộ luật Hình sự năm 2015) đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 đã được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ ba thông qua. 
 
Phiên tòa xét xử các bị cáo phạm tội hình sự.
 
Theo đó, kể từ ngày 1-1-2018, tất cả các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người có hành vi phạm tội. Điểm đáng chú ý là các điều khoản của Bộ luật Hình sự 2015 có lợi cho người phạm tội như: Xóa bỏ một hình phạt, quy định hình phạt nhẹ hơn; miễn trách nhiệm hình sự... được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ ngày 1-1-2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích. Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”… của Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được áp dụng để khởi tố bị can trước ngày 1-1-2018 thì vẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.
 
Đối với hành vi hoạt động phỉ, quy định tại Điều 83; hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật, quy định tại Điều 149; hành vi kinh doanh trái phép, quy định tại Điều 159; hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, quy định tại Điều 165 của Bộ luật Hình sự năm 1999 xảy ra trước ngày 1-1-2018 mà sau thời điểm đó vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 để xử lý. Trường hợp chất thu giữ được nghi là chất ma túy ở thể rắn đã được hòa thành dung dịch, chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng, sái thuốc phiện hoặc thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần quy định tại các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phải xác định hàm lượng chất ma túy làm cơ sở để xác định khối lượng hoặc thể tích chất ma túy thu giữ được...
 
Trường hợp chuyển hình phạt tử hình đã tuyên sang chung thân
 
Kể từ ngày Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (Luật số 12/2017/QH14) được công bố, tiếp tục thực hiện các quy định: Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm tội mà Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình hoặc đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Hình phạt tử hình đã tuyên đối với người phạm tội đủ 75 tuổi trở lên nhưng chưa thi hành án thì không thi hành và chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân. Đối với người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các điều kiện quy định tại Điểm c Khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 thì không thi hành án và chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân. Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là tội phạm nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm, bao gồm: Tảo hôn; báo cáo sai trong quản lý kinh tế;… Không xử lý về hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm không được quy định tại Khoản 2 Điều 12 và Khoản 3 Điều 14 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đối với người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm các tội mà không được quy định tại Khoản 2 Điều 14 của Bộ luật Hình sự năm 2015; nếu vụ án đã khởi tố, đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ.
 
Nghị quyết số 41/2017/QH14 giao Chính phủ, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định chi tiết các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Mục 2 Chương XII của Bộ luật Hình sự năm 2015; Đồng thời giao Tòa án nhân dân Tối cao thông qua tổng kết việc áp dụng pháp luật, giám đốc việc xét xử bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử các quy định về “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”,…
 
Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp tổ chức rà soát các văn bản liên quan để kịp thời hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới hoặc đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.
 
Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 5-7-2017.
 
 
Hồng Cương
Nguồn: hà Nội Mới

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006