Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

           Nhà ở luôn là vấn đề quan trọng trong cuộc đời của nhiều người hiện nay để ổn định cuộc sống, xây dựng gia đình và phát triển sự nghiệp. Do vậy, việc mua bán nhà ở là lĩnh vực được nhiều người lao động tìm hiểu khi muốn mua nhà và lựa chọn những ngôi nhà  tốt nhất cho cuộc sống của mình. Tuy nhiên, trong quá trình mua bán sẽ luôn xảy ra những mâu thuẫn và tránh chấp do nhu cầu và điều khoản không phù hợp với lợi ích của cả bên mua và bên bán. Để giúp giải quyết những vấn đề về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở. Chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở để giúp khách hàng giải quyết những tranh chấp và mang đến những lợi ích hợp phá tốt nhất cho khách hàng.

– Những lưu ý khi làm hợp đồng mua bán nhà ở

Nhà ở là một trong những tài sản có giá trị lớn nhất của mỗi cá nhân và các gia đình trong cuộc sống và được quy định chặt chẽ về quản lý đất đai và nhà ở quy định của Pháp luật. Do vậy, những hoạt động mua bán nhà ở hay đất đai luôn cần được thực hiện theo đúng quy định và cần được sự cho phép của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để việc mua bán nhà ở được diễn ra minh bạch, hạn chế tối thiểu những rùi ro khi mua bán nhà ở cho cảbên mua nhà và bên bán nhà.

Những quy định về mua bán nhà ở được quy định chặt chẽ tại luật Đất đai và luật Nhà ở, do vậy đối với mỗi người mua khi thực hiện mua bán nhà ở cần  thực hiện theo đúng quy định để được pháp luật bảo hộ khi xảy ra những vấn đề, sự cố trong quá trình mua bán nhà.

Cả người mua và người bán nên tìm hiểu kỹ lưỡng khi làm hợp đồng mua bán nhà ở để hạn chế những xung đột, tranh chấp có thể xảy ra  khi làm hợp đồng mua bán dẫn đến có thể  phải giải quyết phức tạp đặc biệt khi cần sự  phán xét từ tòa án trung tâm.

Do vậy, khách hàng nên tìm hiểu kỹ về những thông tin nhà được bán những thông tin về người bán nhà cũng như tìm hiểu kỹ thông tin về người mua để đảm bảo hoạt động mua bán nhà diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp vẫn xả ra những tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở. Khi đó, khách hàng có thể lựa chọn dịch vụ tư vấn mua bán nhà ở trước đó, lựa chọn dịch vụ tư vấn giải quyết tranh chấp nhà ở để giúp khách hàng giải quyết những vướng mắc đồng thời mang lại lợi ích tốt nhất  và hợp pháp cho khách hàng.

Chúng tôi có đội ngũ luật sư uy tín, chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm sẽ giúp khách hàng giải quyết những tránh chấp trong hợp đồng khi mua bán nhà.

– Tư vấn điều kiện được công nhận hợp đồng mua bán nhà ở có hiệu lực

Để thực hiện làm hợp đồng mua bán nhà  có hiệu lực nhằm hạn chế những khả năng có thể xảy ra sự cố khiến hợp đồng có thể không được công nhận có hiệu lực.

  • Những người tham gia  giao kết, ký kết hợp đồng mua bán nhà ở phải là những người có năng lực hành vi dân sự
  • Mục đich và nội dung của hợp đồng mua bán nhà ở không trái pháp luật và đạo đức xã hội
  • Những người tham gia giao kết hoặc ký kết hợp đồng mua bán nhà ở  là người hoàn toàn tự nguyện
  • Hợp đồng mua bán nhà ở phải được thành lập thành văn bản theo  mãu và cần được công chứng và chứng nhận của Công chứng tại Văn phòng Công chứng hoặc cần được chứng thực của Ủy ban nhân dân có thẩm quyền  theo quy định của pháp luật về công chứng và chứng thực khi ký kết hợp đồng mua bán.

2. Những nội dung giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở

Luật sư Gia Đình thực hiện tư vấn trợ giúp khách hàng  thành lập hợp đồng mua bán, thực hiện tư vấn trợ giúp khách hàng giải quyết những tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở  để lấy lại những lợi ích hợp pháp  cho khách hàng tốt nhất.

Thực hiện tư vấn giải quyết tranh chấp lợi từ hợp đồng mua  bán nhà:

  • Thực hiện tư vấn hiệntrạng pháp lý căn nhà, định giá hiện trang pháp lý căn nhà, tư vấn  thực hiện soạn thảo hợp đồng mua bán nhà, đồng thời hỗ trợ mua bán nhà và công chứng  tạo văn phòng công chứng.
  • Trợ giúp tư vấn kiểm định tính rủi ro của hợp đồng mua bán nhà có thể xảy ra cho khách hàng
  • Tư vấn khách hàng kiểm tra tính pháp lý, cơ sở pháp lý trong việc hỗ trợ khách hàng khi giải quyết vấn đề tranh chấp mua bán hợp đồng nhà ở
  • Luật sư tư vấn cùng tham gia tố tụng cho khách hàng, đại diện theo uy quyền của khách hàng để tham gia bảo vệ những lợi ích của khách hàng  trước cơ quan của pháp luật.
  • Luật sư tư vấn, thực hiện những điều kiện xác minh khi thi hành án, hỗ trợ thực hiện khách hàng trợ giúp làm thủ tục thi hành bản án khi được toà án quyết định giải quyết vấn đề tranh chấp, hỗ trợ làm thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở.
  • Tư vấn việc kháng cáo,  tư vấn làm thủ tục bản kháng nghị bản án theo quyết định của tòa án,làm thủ tục kháng nghị lại quyết định của cơ quản quản lý khi quyết định về kết quả giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở.

3. Luật Sư Gia Đình thực hiện tư vấn cho khách hàng

Luật sư Gia Đình cung cấp đội ngũ luật sư chuyên nghiệp uy tín thực hiện tư vấn giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, tư vấn giải quyết tranh chấp đất đai, nhà đất, tư vấn giải quyết tranh chấp ly hôn,… cùng đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm thực hiện những tư vấn cho khách hàng.

  • Luật sư tư vấn cho khách hàng các thức giải quyết những tranh chấp mua bán hợp đồng
  • Thực hiện tư vấn chuyên nghiệp, uy tín để  giành được những lợi ích tốt nhất cho khách hàng theo quy định của pháp luật
  • Thực hiện đại diện khách hàng thực hiện những thủ tục cần thiết khi giải quyết tranh chấp hợp đồng
  • Tư vấn khách hàng thông qua những hình thức tư vấn qua điện thoại, tư vấn qua emai và tư vấn qua cuộc họp trực tiếp

Với luật sư tư vấn của chúng tôi sẽ thấy được sự chuyên nghiệp trình độ cao để tợ giúp khách hàng giải quyết các vấn đề xay ra khi tranh chấp  hợp đồng mua bán nhà ở tốt nhất.

Trân trọng cảm ơn Qúy khách đã tin tưởng chúng tôi trong thời gian qua.

Trân trọng

Luật Sư Chuyên Giaỉ Quyết Tranh Chấp Hợp Đồng Mua Bán Nhà Đất

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

Đây là vi phạm trong hợp đồng dân sự- hợp đồng mua bán tài sản ( tài sản cụ thể là bất động sản)

 Theo như quy định tại thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với hợp đồng dân sự thuộc về tóa án nhân dân cấp Huyện giải quyết theo quy định tại Điều 25 và 33 BLDS năm 2005:

“Điều 33: Thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:

a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 25 và Điều 27 của Bộ luật này;

b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều 29 của Bộ luật này;

c) Tranh chấp về lao động quy định tại khoản 1 Điều 31 của Bộ luật này.

2. Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:

a) yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 26 của Bộ luật này;

b) yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 28 của Bộ luật này.

3. Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện.”

 

Điều kiện mua bán đất đai hợp pháp:

- Thứ nhất, để chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp thì phải qua 3 bước:
 
1. Liên hệ phòng công chứng để công chứng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
 
2. Sau khi công chứng hợp đồng hai bên liên hệ Chi cục thuế để tiến hành thủ tục đóng thuế, Bên chuyển nhượng kê khai và đóng thuế Thu nhập cá nhân; Bên nhận chuyển nhượng kê khai và đóng Lệ phí trước bạ.
 
3. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính, bên nhận chuyển nhượng liên hệ với UBND cấp Quận làm thủ tục đăng bộ.
 
Sau đó bên chuyển nhượng giao cho bên nhận chuyển nhượng: GCN quyền sử dụng đất, thông báo nộp lệ phí trước bạ (bản chính), bản vẽ, giấy tờ đóng thuế sử dụng đất (hàng năm, nếu có).
 
Vì vậy, trong trường hợp này, căn nhà này chưa thể thuộc sở hữu của bạn do chưa hoàn thành xong các thủ tục về chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
 
- Thứ hai, về vấn đề căn nhà có tiếp tục được đăng bộ sang tên hay không: 
 
Theo như bạn trình bày thì GCNQSDĐ (sổ hổng) chỉ đứng tên bà N là người bán nhà chứng tỏ bà N là chủ sở hữu đích thực của ngôi nhà này và có toàn quyền định đoạt tài sản của mình.
 
Vì vậy, căn nhà vẫn tiếp tục được đăng bộ sang tên vợ, chồng bạn mà không liên quan đến ông B vì nó không phải là tài sản liên quan đến ông B do ông B và bà N cũng không phải là vợ, chồng theo quy định của pháp luật (không có giấy đăng kí kết hôn).
 
- Thứ ba, nếu có tranh chấp giữa bà N và ông B thì quan hệ tài sản của hai người này với quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà N với bạn là 2 quan hệ độc lập vì vậy, nó không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của bạn.
 
- Thứ tư, do là quan hệ độc lập nên nếu bạn hoàn thành các thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà N thì căn nhà đó hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của bạn và Ngân hàng không có quyền đối với tài sản của bạn.

Trân trọng

LS TRẦN MINH HÙNG

Luật Sư Bào Chữa Về Đất Đai Tại TP.HCM

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO ÔNG LÊ VĂN TRÍ.

Tôi luật sư TRẦN MINH HÙNG - VPLS GIA ĐÌNH, ĐOÀN LUẬT SƯ TP.HCM. Là luật sư bảo vệ cho ông Lê Văn Trí đưa ra quan luận điểm bảo vệ quyền lợi cho ông: Lê Văn Trí, sinh năm: 1947

            Địa chỉ: ấp 5, xã Vĩnh Bửu, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An là nguyên đơn trong vụ án tranh chấp với vị đơn bà Trần Thị Gần, vụ án đang được tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý giải quyết theo trình tự phúc thẩm theo luật định.

            Việc tòa án nhân dân huyện Tân Hưng ra bản án số 15/2015/DS-ST ngày 24/7/2015 vừa vi phạm tố tụng, xác định sai quan hệ tranh chấp vừa áp dụng sai quy định pháp luật, thu thập chứng cứ không đầy đủ, những người làm chứng có dấu hiệu bị giả mạo chữ ký, triệu tập những người làm chứng không khách quan, không đối chiếu, so sánh các lời trình bày của ông Lê Công Thức mâu thuẫn nhau, không xem xét các lời chứng do phía ông Trí cung cấp, không xem xét nguồn gốc và trình tự cấp đất cho ông Trí đã đúng pháp luật, không xem xét các biên lai đóng thuế đất của ông Trí...cụ thể như sau:

            1/. Cần xác định quan hệ tranh chấp cho đúng quy định pháp luật, ông Trí khởi kiện đòi lại đất chứ không phải khởi kiện quan hệ tranh chấp đất đai. Đất của ông Trí đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hợp pháp thì khi cho rằng việc cấp đất cho Trí là sai thì bà Trần Thị Gần phải khởi kiện UBND huyện nào đã cấp đất cho ông Trí chứ không phải "phản tố" với ông Trí và yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng ra bản án hủy một phần quyết định số 59/QĐ-UB ngày 19/1/2000 của UBND huyện Tân Hưng về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với một phần thửa 171, tờ bản đồ số 19, diện tích: 10.816,5m2 và hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q 219764 cấp ngày 19/1/2000 cho ông Trí là trái quy định pháp luật. Việc bà Gần cho rằng ủy ban cấp sai thì phải khởi kiện vụ án hành chính chứ không thể yêu cầu như vậy mà Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng giải quyết trái quy định pháp luật.

            Theo quy định của Luật tố tụng hành chính 2010 quy định về thời hiệu khởi kiện tại điều 104 như sau:

            "Điều 104. Thời hiệu khởi kiện

            2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:

            a) 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc"

            Căn cứ theo quy định trên thì những lời khai của người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Gần là ông Lê Công Thức tại Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng thì gia đình bà Gần biết việc ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận cho ông Trí từ lâu nhưng không đi kiện, bằng chứng là ông Thức khai do thấy ông Trí vay thế chấp ngân hàng, trong khi ông Trí vay thế chấp ngân hàng từ rất lâu trước đó, giấy chứng nhận của ông Trí được cấp từ năm 1995 và thay đổi vào năm 2000. Từ những căn cứ trên thì nếu có việc bà Gần khởi kiện vụ án hành chính thì cũng đã hết thời hiệu khởi kiện. Chính vì lý do đó Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng đã hợp thức hóa bao che cho bên bị đơn bằng hình thức chấp nhận đơn phản tố yêu cầu hủy giấy chứng nhận cấp cho ông Trí dù xác định sai quan hệ tranh chấp (đây là tranh chấp đòi đất chứ không phải quan hệ tranh chấp đất đai) và nếu bà Gần có cần khởi kiện thì phải khởi kiện vụ án hành chính riêng chứ không thể yêu cầu hủy trái quy định như vậy.

            2/.Việc ông Trí có khai nguồn gốc đất cho ông Lê Văn Xe mượn có khi khai là do cha mẹ để lại có khi khai nguồn gốc khai hoang bởi vì thực tế ông Trí vốn nghĩ cha mẹ khai hoang thì cũng như ông Trí khai hoang mà có, đều do nguồn gốc từ khai hoang. Tuy nhiên, đây không phải là mấu chốt quan trọng, mấu chốt quan trọng và có căn cứ pháp lý là đất đã được cha mẹ tôi cho và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo trình tự, luật định. Đã được UBND huyện Tân Hưng xác nhận "Trước khi được cấp giấy cho ông Lê Văn Trí thì thửa đất số 171, tờ bản đồ số 19 do ông Trí quản lý sử dụng...” (Công văn số 108 ngày 30/6/2016 mà Phòng TNMT huyện Tân Hưng đã gửi cho Tòa án tỉnh Long An).

            Luật đất đai 1993 và sửa đổi bổ sung 2001 đều quy định khi cấp đất đều có thông báo đến chính quyền địa phương phường/xã nơi có đất, có xác nhận của UBND xã nơi có đất, nếu đất không tranh chấp thì được cấp đất. Việc UBND huyện Tân Hưng khi cấp đất cho ông Trí đã thông báo cho địa phương, niêm yết theo trình tự luật định. Vậy tại sao ông Xe, bà Cần không khởi kiện hành chính để hủy giấy chứng nhận trước đây trong khi ông Xe, Gần đã biết được việc tôi được cấp giấy chứng nhận.

            Tại hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trí trong hồ sơ vụ án thì đã có ý kiến xác minh và tổ chức, thực địa tại xã nơi có đất và đã có chữ ký của cán bộ địa chính xã Vĩnh Đại, ý kiến của Hội đồng đăng ký, xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có chữ ký của chủ tịch, đóng dấu của UBND xã là nguồn gốc đất của ông Trí là đúng, đề nghị UBND huyện cấp cho ông Trí (bút lục số 56, số 57, số 62 - TANND huyện Tân Hưng).

Tại Biên bản hòa giải ngày 04/12/2014 của ấp 5, xã Vĩnh Bửu, huyện Tân Hưng, ông Lê Công Thức (SN 1966, con bà Gần và ông Xe, người được ủy quyền) trình bày rằng, phần đất tranh chấp trên được mẹ ông canh tác chỉ hơn mười mấy năm. Sau đó, tại Biên bản hòa giải của UBND xã Vĩnh Bửu ngày 09/02/2015, ông Thức lại cho biết, phần đất tranh chấp do bà nội cho ba ông vào năm 1995. Rồi sau này các buổi hòa giải tại Tòa án thì ông Thức lại khai, trình bày là phần đất trên của ông/bà nội anh cho cha mẹ (Xe, Gần) từ năm 1986-1987. Đây là những lời trình bày mâu thuẫn nhau nhưng vẫn không được Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng đưa vào bản án và không làm rõ tại phiên Tòa tại sao ông Thức khai mâu thuẫn như vậy mà vẫn được tòa án chấp nhận?

            Ông  Thức đã thừa nhận, trước năm 1995, gia đình Thức không sử dụng phần đất đang tranh chấp. Thực tế, ông Trí mới là người sử dụng và được chính quyền cấp GCN nên mới có thể chuyển nhượng một phần đất cho ông Huê và ông Thành trong tổng diện tích mà ông Trí được cấp. Phần đất chuyển nhượng giáp ranh đất của anh Xe. Nếu là đất của ông Xe thì tại sao trong các năm 1995 và năm 2000, khi Nhà nước có thông báo nhiều lần về việc làm thủ tục xin cấp GCN QSDĐ thì ông Xe không làm GCN hoặc tranh chấp. Trong khi đó, từ xưa đến nay, ông Xe và người nhà không hề có đơn khiếu nại hay yêu cầu gì gửi đến chính quyền các cấp. Mặt khác, xưa nay mọi nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ đóng góp các phúc lợi xã hội khác ông Trí đều là người bỏ tiền ra để đóng từ các biên lai thuế đất từ năm 2007 đến năm 2014 đều do ông Trí đóng và đã nộp cho tòa án bản gốc. Ônng Huê là một trong những người làm chứng xác nhận vấn đề này cho ông Trí và ông Trí gửi cho tòa cấp phúc thẩm.

Sau khi ông Thức khai nhận phần đất tranh chấp do bà nội cho ba ông (ông Xe) vào năm 1995 thì ông Trí cho rằng mẹ ông Trí mất năm 1995. Trước khi mất 2 năm, mẹ ông đã lẫn nên lời khai trên của ông Thức là không có cơ sở. Sau khi vấp phải sự phản kháng của ông Trí thì trong các lời khai sau này và tại Tòa, ông Thức đã “chuyển” từ được cho đất năm 1995 sang năm 1986, nhằm “hợp thức hóa” việc sử dụng đất trước Luật Đất đai năm 1993 và cho hợp với thực tế tránh mâu thuẫn mà ông Thức đã trình bày trước đó.

Tuy nhiên, có điều rất “bất thường” ở đây khi ông Thức cho rằng phần đất đang tranh chấp được bà nội cho ba ông (ông Xe) vào năm 1986 (cùng hoặc sau 1 năm ông Xe được cho 3,6 ha đất lúc đầu) thì tại sao bà nội ông Thức không cho đất liền canh, liền cư (tức phần đất ông Trí đã bán cho ông Huê và ông Thành giáp ranh 3,6 ha đất của ba ông Thức vào các năm 1992, 1994, 2000) mà lại “khoét bụng” xẻ giữa đất để cho? đây là điều hết sức mâu thuẫn và không phù hợp với thực tế.

Đây là điều rất mâu thuẫn mà Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng vẫn không làm rõ tại tòa án và trong bản án.

3/. Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng chỉ xác minh và lấy lời khai của những người làm chứng do phía bị đơn bà Gần cung cấp mà không xác minh, lấy lời khai của những người làm chứng do ông Trí cung cấp và đưa vào vụ án. Đây là một việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không làm sáng tỏ vụ án qua những người làm chứng khách quan theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự về thu thập chứng cứ và các nguồn chứng cứ.

4/. Công văn số 58/CV-UBND ngày 8/6/2015 của UBND xã Vĩnh Bửu gửi TAND huyện Tân Hưng và Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng cũng căn cứ trên một số lời khai nhân chứng và những Giấy xác nhận do chính ông Thức cung cấp. Trong đó, qua xác minh, ông Lê Văn Lô (SN 1935, ngụ Tân Hưng, Long An) và người nhà ông khẳng định ông Lô không ký tên vào Giấy xác nhận của ông Thức, cũng như chưa bao giờ ra UBND xã để xác nhận nhưng không biết từ đâu, ông Thức lại “hô biến” ra Giấy xác nhận của ông và được ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Bửu (nay là Bí thư xã) xác nhận, như vậy có dấu hiệu giả mạo chữ ký của ông Lô nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn chưa làm rõ và xử lý trách nhiệm người giả mạo chữ ký này, mặc dù chữ ký ông Lô bị giả mạo nhưng Tòa án vẫn dùng văn bản này làm chứng cứ là vi phạm pháp luật.

5/. TAND huyện Tân Hưng đã dựa vào những cơ sở chứng cứ và lập luận như: Ông Trí đã có sự mâu thuẫn khi khai nguồn gốc đất tranh chấp lúc do tự khai phá, lúc do cha mẹ cho; một số nhân chứng do ông Trí cung cấp khai nhận thấy ông Xe trồng tràm từ năm 2002 (ông Trí cho mượn đất năm 2003); ông Trí không chứng minh được trước năm 2003, ông là người trực tiếp sử dụng phần đất trên để canh tác; ngoài ra, Tòa sơ thẩm còn căn cứ vào một số chứng cứ như nhân chứng xác nhận do ông Thức cung cấp; 2 công văn trả lời của UBND xã Trường Xuân và UBND xã Vĩnh Bửu gửi TAND huyện Tân Hưng với nội dung cho rằng: Phần đất tranh chấp do ông Xe và con ông sử dụng từ năm 1986 – nay; bên cạnh đó, Trưởng phòng TN&MT huyện Tân Hưng là ông Phạm Thanh Hùng cho biết khi xét cấp GCN QSDĐ cho ông Trí là cấp theo hình thức đại trà, không đo đạc thực tế… từ đó TAND huyện Tân Hưng đã bác đơn yêu cầu đòi quyền sử dụng đất của ông Trí.

Tuy nhiên, với những chứng cứ mà ông Thức cung cấp cho Tòa án đã phát hiện nhiều dấu hiệu bất thường! Theo đó, công văn số 58/UBND ngày 04/6/2015 của UBND xã Trường Xuân gửi TAND huyện Tân Hưng đã dựa trên cơ sở cán bộ xã lấy lời khai của chỉ 2 nhân chứng là ông Trần Văn Đồng (SN 1924 – hiện nằm một chỗ, không còn minh mẫn) và ông Nguyễn Văn Lưu (SN 1955) kèm một số Giấy xác nhận do chính ông Thức cung cấp được làm với hình thức rất “bài bản”. Tuy nhiên, điều “bất thường” là trong số những nhân chứng do xã xác minh và Giấy xác nhận do ông Thức cung cấp, có nhiều người từng công tác chung với ông Thức. (ông Thức từng là Trưởng Công an xã Trường Xuân). Như vậy những người làm chứng này là không khách quan, không hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về người làm chứng.

            Còn ông Nguyễn Văn Chơi (SN 1959, ngụ Tháp Mười, Đồng Tháp) cho biết, ông có ký vào Giấy xác nhận tại nhà do ông Thức soạn sẳn đưa. Tuy nhiên, ông không nhớ chính xác năm ông đốn tràm mướn cho ông Xe và cũng không đến UBND xã xác nhận nhưng không biết từ cơ sở nào, ông Thức lại đưa vào là năm 2003 ông đốn tràm mướn và Phó Chủ tịch UBND xã Trường Xuân là Dương Văn Kiệt đã ký xác nhận.

            Công văn số 58/CV-UBND ngày 8/6/2015 của UBND xã Vĩnh Bửu gửi TAND huyện Tân Hưng cũng căn cứ trên một số lời khai nhân chứng và những Giấy xác nhận do chính ông Thức cung cấp. Trong đó, qua xác minh, ông Lê Văn Lô (SN 1935, ngụ Tân Hưng, Long An) và người nhà ông khẳng định ông Lô không ký tên vào Giấy xác nhận của ông Thức, cũng như chưa bao giờ ra UBND xã để xác nhận nhưng không biết từ đâu, ông Thức lại “hô biến” ra Giấy xác nhận của ông và được ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Bửu (nay là Bí thư xã) xác nhận.

      Cùng năm 2015, trong khi ông Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Bửu xác nhận tất cả nhân chứng cho ông Thức thì khi ông Trí chỉ yêu cầu xác nhận chữ ký của 4 nhân chứng thôi nhưng ông Tuấn không xác nhận dù cả 4 nhân chứng đều có mặt tại đó. Ông Tuấn cho rằng chuyện quá khứ ông không biết và không chịu xác nhận cho ông Trí trong khi lại xác nhận chữ ký của những người làm chứng cho ông Thức. Điều này cho thấy dấu hiệu không khách quan từ UBND xã để Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng xét cử trong vụ án thiếu minh bạch, khách quan này.

Qua xác minh thực tế, một loạt các nhân chứng khác có đất canh tác liền kề với ông Trí và ông Xe khẳng định phần đất đang tranh chấp là của ông Trí sử dụng từ trước năm 2002, đến năm 2003, ông Xe mới mượn của ông Trí trồng tràm, 4 nhân chứng trước đây ông Tuấn không xác nhận đã được PCT hiện nay là ông Lễ xác nhận và đã được ông Trí nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm.

5/. Ông Trí là người đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp lệ và đã đóng biên lai thuế cụ thể vào các năm 2007, 2010, 2014 và hoàn tất các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước vì đó là đất của ông Trí đã cho ông Xe mượn (các biên lai thuế hàng năm ông Trí đã gửi cho Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng). Nếu là đất của ông Xe sao ông Thức không đóng thuế hàng năm như ông Trí?

Theo quy định pháp luật đất đai thì chủ sử dụng đất mới là người phải đóng thuế hàng năm, người không đóng thuế hàng năm, không có biên lai thì không có cơ sở xem xét cấp đất nông nghiệp. Vậy hàng chục năm nay ông Trí là người đóng thuế đất, gia đình bà Gần không hề đóng khoản tiền nào nhưng Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng lại xét xử công nhận đất cho ông Xe là vi phạm pháp luật đất đai nghiêm trọng, không có căn cứ.

Trước khi cấp đất cho ông Trí UBND đã tiến hành xác minh, đối chiếu và tiến hành thực địa của toàn cán bộ, có ý kiến của cán bộ địa chính xã, ý kiến của hội đồng đăng ký, xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 24/12/1999 UBND xã Vĩnh Đại (đính kèm hồ sơ với đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/12/1999 của ông Trí),. Ngoài ra là bảng danh sách các hộ gia đình và cá nhân đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tờ trình số 08/TT.UB ngày 24/12/1999 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, hộ gia đình trong xã" của UBND xã Vĩnh Đại, Biên bản xét duyệt của Hội đồng đăng ký QSD đất ngày 24/12/1999 của UBND xã Vĩnh Hưng (các văn bản chứng cứ này đã nộp cho tòa án sơ thẩm và đánh bút lục). Trong tất cả các văn bản này thì UBND xã Vĩnh Đại đều thừa nhận đã tiến hành xác minh, phân loại, thẩm tra, thảo luận và thống nhất đề nghị UBND huyện Tân Hưng cấp đât cho 248 hộ dân, trong đó có hộ ông Trí. Do vậy việc đại diện UBND huyện Tân Hưng cho rằng đất cấp theo đại trà là không có cơ sở bởi việc cấp đất này đã được UBND xã Vĩnh Đại thẩm tra, xem xét, đối chiếu, thảo luận và công khai, xác minh cụ thể theo như các văn bản, chứng cứ nêu trên và theo đúng trình tự luật đất đai quy định.

Cụ thể, tại văn bản số 108/PTNMT - TC ngày 30/6/2016 về việc phúc đáp công văn số 734/TA- CV ngày 14/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An thì UBND huyện trả lời tòa án nhân dân tỉnh Long An cụ thể như sau:

“....ngày 19/1/2000, ông Lê Văn Trí được UBND huyện Tân Hưng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành Q 219764, số vào sổ: 1628, thửa đất 171, tờ bản đồ số 19, với diện tích: 34370m2, mục đích sử dụng: đất rừng sản xuất (RSM), vịu trí khu đất: xã Vĩnh Đại, huyện Tân Hưng, Long an.

Trước khi được cấp giấy cho ông Lê Văn Trí thì thửa đất số 171, tờ bản đồ số 19 do ông Trí quản lý sử dụng...”

Từ các căn cứ trên có thể khẳng định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho ông Trí là hợp lệ, phù hợp với thực tế vì đây là đất của ông Trí.

Trên đây là ý kiến bổ sung của tôi ngoài những ý kiến trước đây tôi đã nộp cho Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng và Tòa án nhân dân tỉnh Long an.

Tôi cũng đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử sớm vì tôi đã nộp bản xác nhận của những người làm chứng cho tòa án, có xã xác nhận chữ ký của những người làm chứng.

Vụ án đã kéo dài quá lâu, trong khi theo pháp luật tố tụng dân sự thì thời gian xét xử phúc thẩm chỉ từ 2-3 tháng.

Kính mong Q úy tòa sớm xem xét, chấp nhận yêu cầu của tôi.

Trân trọng cảm ơn.

                                                                        Long an, ngày   tháng   năm 2016

                                    Luật sư Trần Minh Hùng - Đoàn  LS TPHCM - VPLD GIA ĐÌNH

 

luật sư chuyên về tranh chấp đất đai tại tphcm

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO ÔNG LÊ VĂN TRÍ.

Tôi luật sư TRẦN MINH HÙNG - VPLS GIA ĐÌNH, ĐOÀN LUẬT SƯ TP.HCM. Là luật sư bảo vệ cho ông Lê Văn Trí đưa ra quan luận điểm bảo vệ quyền lợi cho ông: Lê Văn Trí, sinh năm: 1947

            Địa chỉ: ấp 5, xã Vĩnh Bửu, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An là nguyên đơn trong vụ án tranh chấp với vị đơn bà Trần Thị Gần, vụ án đang được tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý giải quyết theo trình tự phúc thẩm theo luật định.

            Việc tòa án nhân dân huyện Tân Hưng ra bản án số 15/2015/DS-ST ngày 24/7/2015 vừa vi phạm tố tụng, xác định sai quan hệ tranh chấp vừa áp dụng sai quy định pháp luật, thu thập chứng cứ không đầy đủ, những người làm chứng có dấu hiệu bị giả mạo chữ ký, triệu tập những người làm chứng không khách quan, không đối chiếu, so sánh các lời trình bày của ông Lê Công Thức mâu thuẫn nhau, không xem xét các lời chứng do phía ông Trí cung cấp, không xem xét nguồn gốc và trình tự cấp đất cho ông Trí đã đúng pháp luật, không xem xét các biên lai đóng thuế đất của ông Trí...cụ thể như sau:

            1/. Cần xác định quan hệ tranh chấp cho đúng quy định pháp luật, ông Trí khởi kiện đòi lại đất chứ không phải khởi kiện quan hệ tranh chấp đất đai. Đất của ông Trí đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hợp pháp thì khi cho rằng việc cấp đất cho Trí là sai thì bà Trần Thị Gần phải khởi kiện UBND huyện nào đã cấp đất cho ông Trí chứ không phải "phản tố" với ông Trí và yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng ra bản án hủy một phần quyết định số 59/QĐ-UB ngày 19/1/2000 của UBND huyện Tân Hưng về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với một phần thửa 171, tờ bản đồ số 19, diện tích: 10.816,5m2 và hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q 219764 cấp ngày 19/1/2000 cho ông Trí là trái quy định pháp luật. Việc bà Gần cho rằng ủy ban cấp sai thì phải khởi kiện vụ án hành chính chứ không thể yêu cầu như vậy mà Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng giải quyết trái quy định pháp luật. 

            Theo quy định của Luật tố tụng hành chính 2010 quy định về thời hiệu khởi kiện tại điều 104 như sau:

            "Điều 104. Thời hiệu khởi kiện

            2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:

            a) 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc"

            Căn cứ theo quy định trên thì những lời khai của người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Gần là ông Lê Công Thức tại Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng thì gia đình bà Gần biết việc ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận cho ông Trí từ lâu nhưng không đi kiện, bằng chứng là ông Thức khai do thấy ông Trí vay thế chấp ngân hàng, trong khi ông Trí vay thế chấp ngân hàng từ rất lâu trước đó, giấy chứng nhận của ông Trí được cấp từ năm 1995 và thay đổi vào năm 2000. Từ những căn cứ trên thì nếu có việc bà Gần khởi kiện vụ án hành chính thì cũng đã hết thời hiệu khởi kiện. Chính vì lý do đó Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng đã hợp thức hóa bao che cho bên bị đơn bằng hình thức chấp nhận đơn phản tố yêu cầu hủy giấy chứng nhận cấp cho ông Trí dù xác định sai quan hệ tranh chấp (đây là tranh chấp đòi đất chứ không phải quan hệ tranh chấp đất đai) và nếu bà Gần có cần khởi kiện thì phải khởi kiện vụ án hành chính riêng chứ không thể yêu cầu hủy trái quy định như vậy.

            2/.Việc ông Trí có khai nguồn gốc đất cho ông Lê Văn Xe mượn có khi khai là do cha mẹ để lại có khi khai nguồn gốc khai hoang bởi vì thực tế ông Trí vốn nghĩ cha mẹ khai hoang thì cũng như ông Trí khai hoang mà có, đều do nguồn gốc từ khai hoang. Tuy nhiên, đây không phải là mấu chốt quan trọng, mấu chốt quan trọng và có căn cứ pháp lý là đất đã được cha mẹ tôi cho và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo trình tự, luật định. Đã được UBND huyện Tân Hưng xác nhận "Trước khi được cấp giấy cho ông Lê Văn Trí thì thửa đất số 171, tờ bản đồ số 19 do ông Trí quản lý sử dụng...” (Công văn số 108 ngày 30/6/2016 mà Phòng TNMT huyện Tân Hưng đã gửi cho Tòa án tỉnh Long An).

            Luật đất đai 1993 và sửa đổi bổ sung 2001 đều quy định khi cấp đất đều có thông báo đến chính quyền địa phương phường/xã nơi có đất, có xác nhận của UBND xã nơi có đất, nếu đất không tranh chấp thì được cấp đất. Việc UBND huyện Tân Hưng khi cấp đất cho ông Trí đã thông báo cho địa phương, niêm yết theo trình tự luật định. Vậy tại sao ông Xe, bà Cần không khởi kiện hành chính để hủy giấy chứng nhận trước đây trong khi ông Xe, Gần đã biết được việc tôi được cấp giấy chứng nhận.

            Tại hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trí trong hồ sơ vụ án thì đã có ý kiến xác minh và tổ chức, thực địa tại xã nơi có đất và đã có chữ ký của cán bộ địa chính xã Vĩnh Đại, ý kiến của Hội đồng đăng ký, xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có chữ ký của chủ tịch, đóng dấu của UBND xã là nguồn gốc đất của ông Trí là đúng, đề nghị UBND huyện cấp cho ông Trí (bút lục số 56, số 57, số 62 - TANND huyện Tân Hưng).

Tại Biên bản hòa giải ngày 04/12/2014 của ấp 5, xã Vĩnh Bửu, huyện Tân Hưng, ông Lê Công Thức (SN 1966, con bà Gần và ông Xe, người được ủy quyền) trình bày rằng, phần đất tranh chấp trên được mẹ ông canh tác chỉ hơn mười mấy năm. Sau đó, tại Biên bản hòa giải của UBND xã Vĩnh Bửu ngày 09/02/2015, ông Thức lại cho biết, phần đất tranh chấp do bà nội cho ba ông vào năm 1995. Rồi sau này các buổi hòa giải tại Tòa án thì ông Thức lại khai, trình bày là phần đất trên của ông/bà nội anh cho cha mẹ (Xe, Gần) từ năm 1986-1987. Đây là những lời trình bày mâu thuẫn nhau nhưng vẫn không được Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng đưa vào bản án và không làm rõ tại phiên Tòa tại sao ông Thức khai mâu thuẫn như vậy mà vẫn được tòa án chấp nhận?

            Ông  Thức đã thừa nhận, trước năm 1995, gia đình Thức không sử dụng phần đất đang tranh chấp. Thực tế, ông Trí mới là người sử dụng và được chính quyền cấp GCN nên mới có thể chuyển nhượng một phần đất cho ông Huê và ông Thành trong tổng diện tích mà ông Trí được cấp. Phần đất chuyển nhượng giáp ranh đất của anh Xe. Nếu là đất của ông Xe thì tại sao trong các năm 1995 và năm 2000, khi Nhà nước có thông báo nhiều lần về việc làm thủ tục xin cấp GCN QSDĐ thì ông Xe không làm GCN hoặc tranh chấp. Trong khi đó, từ xưa đến nay, ông Xe và người nhà không hề có đơn khiếu nại hay yêu cầu gì gửi đến chính quyền các cấp. Mặt khác, xưa nay mọi nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ đóng góp các phúc lợi xã hội khác ông Trí đều là người bỏ tiền ra để đóng từ các biên lai thuế đất từ năm 2007 đến năm 2014 đều do ông Trí đóng và đã nộp cho tòa án bản gốc. Ônng Huê là một trong những người làm chứng xác nhận vấn đề này cho ông Trí và ông Trí gửi cho tòa cấp phúc thẩm.

Sau khi ông Thức khai nhận phần đất tranh chấp do bà nội cho ba ông (ông Xe) vào năm 1995 thì ông Trí cho rằng mẹ ông Trí mất năm 1995. Trước khi mất 2 năm, mẹ ông đã lẫn nên lời khai trên của ông Thức là không có cơ sở. Sau khi vấp phải sự phản kháng của ông Trí thì trong các lời khai sau này và tại Tòa, ông Thức đã “chuyển” từ được cho đất năm 1995 sang năm 1986, nhằm “hợp thức hóa” việc sử dụng đất trước Luật Đất đai năm 1993 và cho hợp với thực tế tránh mâu thuẫn mà ông Thức đã trình bày trước đó.

Tuy nhiên, có điều rất “bất thường” ở đây khi ông Thức cho rằng phần đất đang tranh chấp được bà nội cho ba ông (ông Xe) vào năm 1986 (cùng hoặc sau 1 năm ông Xe được cho 3,6 ha đất lúc đầu) thì tại sao bà nội ông Thức không cho đất liền canh, liền cư (tức phần đất ông Trí đã bán cho ông Huê và ông Thành giáp ranh 3,6 ha đất của ba ông Thức vào các năm 1992, 1994, 2000) mà lại “khoét bụng” xẻ giữa đất để cho? đây là điều hết sức mâu thuẫn và không phù hợp với thực tế.

Đây là điều rất mâu thuẫn mà Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng vẫn không làm rõ tại tòa án và trong bản án.

3/. Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng chỉ xác minh và lấy lời khai của những người làm chứng do phía bị đơn bà Gần cung cấp mà không xác minh, lấy lời khai của những người làm chứng do ông Trí cung cấp và đưa vào vụ án. Đây là một việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không làm sáng tỏ vụ án qua những người làm chứng khách quan theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự về thu thập chứng cứ và các nguồn chứng cứ.

4/. Công văn số 58/CV-UBND ngày 8/6/2015 của UBND xã Vĩnh Bửu gửi TAND huyện Tân Hưng và Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng cũng căn cứ trên một số lời khai nhân chứng và những Giấy xác nhận do chính ông Thức cung cấp. Trong đó, qua xác minh, ông Lê Văn Lô (SN 1935, ngụ Tân Hưng, Long An) và người nhà ông khẳng định ông Lô không ký tên vào Giấy xác nhận của ông Thức, cũng như chưa bao giờ ra UBND xã để xác nhận nhưng không biết từ đâu, ông Thức lại “hô biến” ra Giấy xác nhận của ông và được ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Bửu (nay là Bí thư xã) xác nhận, như vậy có dấu hiệu giả mạo chữ ký của ông Lô nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn chưa làm rõ và xử lý trách nhiệm người giả mạo chữ ký này, mặc dù chữ ký ông Lô bị giả mạo nhưng Tòa án vẫn dùng văn bản này làm chứng cứ là vi phạm pháp luật.

5/. TAND huyện Tân Hưng đã dựa vào những cơ sở chứng cứ và lập luận như: Ông Trí đã có sự mâu thuẫn khi khai nguồn gốc đất tranh chấp lúc do tự khai phá, lúc do cha mẹ cho; một số nhân chứng do ông Trí cung cấp khai nhận thấy ông Xe trồng tràm từ năm 2002 (ông Trí cho mượn đất năm 2003); ông Trí không chứng minh được trước năm 2003, ông là người trực tiếp sử dụng phần đất trên để canh tác; ngoài ra, Tòa sơ thẩm còn căn cứ vào một số chứng cứ như nhân chứng xác nhận do ông Thức cung cấp; 2 công văn trả lời của UBND xã Trường Xuân và UBND xã Vĩnh Bửu gửi TAND huyện Tân Hưng với nội dung cho rằng: Phần đất tranh chấp do ông Xe và con ông sử dụng từ năm 1986 – nay; bên cạnh đó, Trưởng phòng TN&MT huyện Tân Hưng là ông Phạm Thanh Hùng cho biết khi xét cấp GCN QSDĐ cho ông Trí là cấp theo hình thức đại trà, không đo đạc thực tế… từ đó TAND huyện Tân Hưng đã bác đơn yêu cầu đòi quyền sử dụng đất của ông Trí.

Tuy nhiên, với những chứng cứ mà ông Thức cung cấp cho Tòa án đã phát hiện nhiều dấu hiệu bất thường! Theo đó, công văn số 58/UBND ngày 04/6/2015 của UBND xã Trường Xuân gửi TAND huyện Tân Hưng đã dựa trên cơ sở cán bộ xã lấy lời khai của chỉ 2 nhân chứng là ông Trần Văn Đồng (SN 1924 – hiện nằm một chỗ, không còn minh mẫn) và ông Nguyễn Văn Lưu (SN 1955) kèm một số Giấy xác nhận do chính ông Thức cung cấp được làm với hình thức rất “bài bản”. Tuy nhiên, điều “bất thường” là trong số những nhân chứng do xã xác minh và Giấy xác nhận do ông Thức cung cấp, có nhiều người từng công tác chung với ông Thức. (ông Thức từng là Trưởng Công an xã Trường Xuân). Như vậy những người làm chứng này là không khách quan, không hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về người làm chứng.

            Còn ông Nguyễn Văn Chơi (SN 1959, ngụ Tháp Mười, Đồng Tháp) cho biết, ông có ký vào Giấy xác nhận tại nhà do ông Thức soạn sẳn đưa. Tuy nhiên, ông không nhớ chính xác năm ông đốn tràm mướn cho ông Xe và cũng không đến UBND xã xác nhận nhưng không biết từ cơ sở nào, ông Thức lại đưa vào là năm 2003 ông đốn tràm mướn và Phó Chủ tịch UBND xã Trường Xuân là Dương Văn Kiệt đã ký xác nhận.

            Công văn số 58/CV-UBND ngày 8/6/2015 của UBND xã Vĩnh Bửu gửi TAND huyện Tân Hưng cũng căn cứ trên một số lời khai nhân chứng và những Giấy xác nhận do chính ông Thức cung cấp. Trong đó, qua xác minh, ông Lê Văn Lô (SN 1935, ngụ Tân Hưng, Long An) và người nhà ông khẳng định ông Lô không ký tên vào Giấy xác nhận của ông Thức, cũng như chưa bao giờ ra UBND xã để xác nhận nhưng không biết từ đâu, ông Thức lại “hô biến” ra Giấy xác nhận của ông và được ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Bửu (nay là Bí thư xã) xác nhận.                                                                                                                            Cùng năm 2015, trong khi ông Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Bửu xác nhận tất cả nhân chứng cho ông Thức thì khi ông Trí chỉ yêu cầu xác nhận chữ ký của 4 nhân chứng thôi nhưng ông Tuấn không xác nhận dù cả 4 nhân chứng đều có mặt tại đó. Ông Tuấn cho rằng chuyện quá khứ ông không biết và không chịu xác nhận cho ông Trí trong khi lại xác nhận chữ ký của những người làm chứng cho ông Thức. Điều này cho thấy dấu hiệu không khách quan từ UBND xã để Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng xét cử trong vụ án thiếu minh bạch, khách quan này.

Qua xác minh thực tế, một loạt các nhân chứng khác có đất canh tác liền kề với ông Trí và ông Xe khẳng định phần đất đang tranh chấp là của ông Trí sử dụng từ trước năm 2002, đến năm 2003, ông Xe mới mượn của ông Trí trồng tràm, 4 nhân chứng trước đây ông Tuấn không xác nhận đã được PCT hiện nay là ông Lễ xác nhận và đã được ông Trí nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm.

5/. Ông Trí là người đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp lệ và đã đóng biên lai thuế cụ thể vào các năm 2007, 2010, 2014 và hoàn tất các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước vì đó là đất của ông Trí đã cho ông Xe mượn (các biên lai thuế hàng năm ông Trí đã gửi cho Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng). Nếu là đất của ông Xe sao ông Thức không đóng thuế hàng năm như ông Trí?

Theo quy định pháp luật đất đai thì chủ sử dụng đất mới là người phải đóng thuế hàng năm, người không đóng thuế hàng năm, không có biên lai thì không có cơ sở xem xét cấp đất nông nghiệp. Vậy hàng chục năm nay ông Trí là người đóng thuế đất, gia đình bà Gần không hề đóng khoản tiền nào nhưng Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng lại xét xử công nhận đất cho ông Xe là vi phạm pháp luật đất đai nghiêm trọng, không có căn cứ.

Trước khi cấp đất cho ông Trí UBND đã tiến hành xác minh, đối chiếu và tiến hành thực địa của toàn cán bộ, có ý kiến của cán bộ địa chính xã, ý kiến của hội đồng đăng ký, xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 24/12/1999 UBND xã Vĩnh Đại (đính kèm hồ sơ với đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/12/1999 của ông Trí),. Ngoài ra là bảng danh sách các hộ gia đình và cá nhân đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tờ trình số 08/TT.UB ngày 24/12/1999 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, hộ gia đình trong xã" của UBND xã Vĩnh Đại, Biên bản xét duyệt của Hội đồng đăng ký QSD đất ngày 24/12/1999 của UBND xã Vĩnh Hưng (các văn bản chứng cứ này đã nộp cho tòa án sơ thẩm và đánh bút lục). Trong tất cả các văn bản này thì UBND xã Vĩnh Đại đều thừa nhận đã tiến hành xác minh, phân loại, thẩm tra, thảo luận và thống nhất đề nghị UBND huyện Tân Hưng cấp đât cho 248 hộ dân, trong đó có hộ ông Trí. Do vậy việc đại diện UBND huyện Tân Hưng cho rằng đất cấp theo đại trà là không có cơ sở bởi việc cấp đất này đã được UBND xã Vĩnh Đại thẩm tra, xem xét, đối chiếu, thảo luận và công khai, xác minh cụ thể theo như các văn bản, chứng cứ nêu trên và theo đúng trình tự luật đất đai quy định.

Cụ thể, tại văn bản số 108/PTNMT - TC ngày 30/6/2016 về việc phúc đáp công văn số 734/TA- CV ngày 14/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An thì UBND huyện trả lời tòa án nhân dân tỉnh Long An cụ thể như sau:

“....ngày 19/1/2000, ông Lê Văn Trí được UBND huyện Tân Hưng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành Q 219764, số vào sổ: 1628, thửa đất 171, tờ bản đồ số 19, với diện tích: 34370m2, mục đích sử dụng: đất rừng sản xuất (RSM), vịu trí khu đất: xã Vĩnh Đại, huyện Tân Hưng, Long an.

Trước khi được cấp giấy cho ông Lê Văn Trí thì thửa đất số 171, tờ bản đồ số 19 do ông Trí quản lý sử dụng...”

Từ các căn cứ trên có thể khẳng định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho ông Trí là hợp lệ, phù hợp với thực tế vì đây là đất của ông Trí.

Trên đây là ý kiến bổ sung của tôi ngoài những ý kiến trước đây tôi đã nộp cho Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng và Tòa án nhân dân tỉnh Long an.

Tôi cũng đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử sớm vì tôi đã nộp bản xác nhận của những người làm chứng cho tòa án, có xã xác nhận chữ ký của những người làm chứng.

Vụ án đã kéo dài quá lâu, trong khi theo pháp luật tố tụng dân sự thì thời gian xét xử phúc thẩm chỉ từ 2-3 tháng.

Kính mong Q úy tòa sớm xem xét, chấp nhận yêu cầu của tôi.

Trân trọng cảm ơn.

                                                                        Long an, ngày   tháng   năm 2016

                                    Luật sư Trần Minh Hùng - Đoàn  LS TPHCM - VPLD GIA ĐÌNH

luật sư bào chữa tranh chấp đất đai tại tphcm

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Tranh Chấp Nhà Đất

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO ÔNG LÊ VĂN TRÍ.

Tôi luật sư TRẦN MINH HÙNG - VPLS GIA ĐÌNH, ĐOÀN LUẬT SƯ TP.HCM. Là luật sư bảo vệ cho ông Lê Văn Trí đưa ra quan luận điểm bảo vệ quyền lợi cho ông Trí như sau:

            ông: Lê Văn Trí, sinh ăm: 1947

            Địa chỉ: ấp 5, xã Vĩnh Bửu, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An là nguyên đơn trong vụ án tranh chấp với vị đơn bà Trần Thị Gần, vụ án đang được tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý giải quyết theo trình tự phúc thẩm theo luật định.

            Việc tòa án nhân dân huyện Tân Hưng ra bản án số 15/2015/DS-ST ngày 24/7/2015 vừa vi phạm tố tụng, xác định sai quan hệ tranh chấp vừa áp dụng sai quy định pháp luật, thu thập chứng cứ không đầy đủ, những người làm chứng có dấu hiệu bị giả mạo chữ ký, triệu tập những người làm chứng không khách quan, không đối chiếu, so sánh các lời trình bày của ông Lê Công Thức mâu thuẫn nhau, không xem xét các lời chứng do phía ông Trí cung cấp, không xem xét nguồn gốc và trình tự cấp đất cho ông Trí đã đúng pháp luật, không xem xét các biên lai đóng thuế đất của ông Trí...cụ thể như sau:

            1/. Cần xác định quan hệ tranh chấp cho đúng quy định pháp luật, tôi khởi kiện đòi lại đất chứ không phải khởi kiện quan hệ tranh chấp đất đai. Đất của tôi đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hợp pháp thì khi cho rằng việc cấp đất cho tôi là sai thì bà Trần Thị Gần phải khởi kiện UBND huyện nào đã cấp đất cho tôi chứ không phải "phản tố" với tôi và Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng ra bản án hủy một phần quyết định số 59/QĐ-UB ngày 19/1/2000 của UBND huyện Tân Hưng về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với một phần thửa 171, tờ bản đồ số 19, diện tích: 10.816,5m2 và hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q 219764 cấp ngày 19/1/2000 cho tôi là trái quy định pháp luật. Việc bà Gần cho rằng ủy ban cấp sai thì phải khởi kiện vụ án hành chính chứ không thể yêu cầu như vậy mà Tòa án nhân dân huyện Tân giải quyết trái quy định pháp luật.

            Theo quy định của Luật tố tụng hành chính 2010 quy định về thời hiệu khởi kiện tại điều 104 như sau:

            "Điều 104. Thời hiệu khởi kiện

            2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:

            a) 01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc"

            Căn cứ theo quy định trên thì những lời khai của người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Gần là ông Lê Công Thức tại Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng thì gia đình bà Gần biết việc ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận cho ông Trí từ lâu nhưng không đi kiện, bằng chứng là ông Thức khai do thấy ông Trí vay thế chấp ngân hàng, trong khi ông Trí vay thế chấp ngân hàng từ năm 2007-2008. Từ những căn cứ trên thì nếu có việc bà Gần khởi kiện vụ án hành chính thì cũng đã hết thời hiệu khởi kiện. Chính vì lý do đó Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng đã hợp thức hóa bao che cho bên bị đơn bằng hình thức chấp nhận đơn phản tố yêu cầu hủy giấy chứng nhận cấp cho tôi dù xác định sai quan hệ tranh chấp (đây là tranh chấp đòi đất chứ không phải quan hệ tranh chấp đất đai) và nếu bà Gần có cần khởi kiện thì phải khởi kiện vụ án hành chính riêng chứ không thể yêu cầu hủy trái quy định như vậy.

            2/.Việc tôi có khai nguồn gốc đất cho ông Lê Văn Xe mượn có khi tôi khai là do cha mẹ để lại có khi khai nguồn gốc khai hoang bởi vì thực tế tôi nghĩ cha mẹ tôi khai hoang thì cũng như tôi khai hoang mà có, đều do nguồn gốc từ khai hoang. Tuy nhiên, đây khồng phải là mấu chốt quan trọng, mấu chốt quan trọng và có căn cứ pháp lý là đất đã được cha mẹ tôi cho và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo trình tự, luật định.

            Luật đất đai 1993 và sửa đổi bổ sung 2001 đều quy định khi cấp đất đều có thông báo đến chính quyền địa phương phường/xã nơi có đất, có xác nhận của UBND xã nơi có đất, nếu đất không tranh chấp thì được cấp đất. Việc UBND huyện Tân Hưng khi cấp đất cho tôi đã thông báo cho địa phương, niêm yết theo trình tự luật định. Vậy tại sao ông Xe, bà Cần không khởi kiện hành chính để hủy giấy chứng nhận trước đây trong khi ông Xe, Gần đã biết được việc tôi được cấp giấy chứng nhận.

Tại Biên bản hòa giải ngày 04/12/2014 của ấp 5, xã Vĩnh Bửu, huyện Tân Hưng, ông Lê Công Thức (SN 1966, con bà Gần và ông Xe, người được ủy quyền) trình bày rằng, phần đất tranh chấp trên được mẹ ông canh tác chỉ hơn mười mấy năm. Sau đó, tại Biên bản hòa giải của UBND xã Vĩnh Bửu ngày 09/02/2015, ông Thức lại cho biết, phần đất tranh chấp do bà nội cho ba ông vào năm 1995. Đây là những lời trình bày mâu thuẫn nhau nhưng vẫn không được Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng đưa vào bản án và không làm rõ tại phiên Tòa tại sao ông Thức khai mâu thuẫn như vậy mà vẫn được tòa án chấp nhận phản tố?

            Ông  Thức đã thừa nhận, trước năm 1995, gia đình Thức không sử dụng phần đất đang tranh chấp. Thực tế, tôi mới là người sử dụng và được chính quyền cấp GCN nên mới có thể chuyển nhượng một phần đất cho ông Huê và ông Thành. Phần đất chuyển nhượng giáp ranh đất của anh Xe. Nếu là đất của anh tôi thì tại sao trong các năm 1995 và năm 2000, khi Nhà nước có thông báo nhiều lần về việc làm thủ tục xin cấp GCN QSDĐ thì anh Xe không làm. Trong khi đó, từ xưa đến nay, anh Xe và người nhà không hề có đơn khiếu nại hay yêu cầu gì gửi đến chính quyền các cấp. Mặt khác, xưa nay mọi nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ đóng góp các phúc lợi xã hội khác tôi đều là người bỏ tiền ra hết. Ônng Huê là một trong những nguwoif làm chứng xác nhận vấn đề này cho tôi và tôi đã gửi cho tòa cấp phúc thẩm.

Sau khi ông Thức khai nhận phần đất tranh chấp do bà nội cho ba ông vào năm 1995 thì tôi đã phản bác rằng mẹ ông mất năm 1995. Trước mất 2 năm, mẹ ông đã lẫn nên lời khai trên của Thức là không có cơ sở. Sau khi bị tôi đáp trả, trong các lời khai sau này và tại Tòa, ông Thức đã “chuyển” từ được cho đất năm 1995 sang năm 1986, nhằm “hợp thức hóa” việc sử dụng đất trước Luật Đất đai năm 1993 và cho hợp với thực tế tránh mâu thuẫn như tôi nêu trên.

Tuy nhiên, có điều rất “bất thường” ở đây khi ông Thức cho rằng phần đất đang tranh chấp được bà nội cho ba ông (ông Xe) vào năm 1986 (cùng hoặc sau 1 năm ông Xe được cho 3,6 ha đất lúc đầu) thì tại sao bà nội ông Thức không cho đất liền canh, liền cư (tức phần đất ông Trí đã bán cho ông Huê và ông Thành giáp ranh 3,6 ha đất của ba ông Thức vào các năm 1992, 1994, 2000) mà lại “khoét bụng” xẻ giữa đất để cho? đây là điều hết sức mâu thuẫn và không phù hợp với thực tế.

Đây là điều rất mâu thuẫn mà Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng vẫn không làm rõ tại tòa án và trong bản án.

3/. Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng chỉ xác minh và lấy lời khai của những người làm chứng do phía bị đơn bà Gần cung cấp mà không xác minh, lấy lời khai của những người làm chứng do tôi cung cấp và đưa vào vụ án. Đây là một việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, không làm sáng tỏ vụ án qua những người làm chứng khách quan theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự về thu thập chứng cứ và các nguồn chứng cứ.

3/. Công văn số 58/CV-UBND ngày 8/6/2015 của UBND xã Vĩnh Bửu gửi TAND huyện Tân Hưng và Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng cũng căn cứ trên một số lời khai nhân chứng và những Giấy xác nhận do chính ông Thức cung cấp. Trong đó, qua xác minh, ông Lê Văn Lô (SN 1935, ngụ Tân Hưng, Long An) và người nhà ông khẳng định ông Lô không ký tên vào Giấy xác nhận của ông Thức, cũng như chưa bao giờ ra UBND xã để xác nhận nhưng không biết từ đâu, ông Thức lại “hô biến” ra Giấy xác nhận của ông và được ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Bửu (nay là Bí thư xã) xác nhận, như vậy có dấu hiệu giả mạo chữ ký của ông Lô nhưng Tòa án cấp sơ thẩm vẫn chưa làm rõ và xử lý trách nhiệm người giả mạo chữ ký này, mặc dù chữ ký ông Lô bị giả mạo nhưng Tòa án vẫn dùng văn bản này làm chứng cứ là vi phạm pháp luật.

4/. TAND huyện Tân Hưng đã dựa vào những cơ sở chứng cứ và lập luận như: Ông Trí đã có sự mâu thuẫn khi khai nguồn gốc đất tranh chấp lúc do tự khai phá, lúc do cha mẹ cho; một số nhân chứng do ông Trí cung cấp khai nhận thấy ông Xe trồng tràm từ năm 2002 (ông Trí cho mượn đất năm 2003); ông Trí không chứng minh được trước năm 2003, ông là người trực tiếp sử dụng phần đất trên để canh tác; ngoài ra, Tòa sơ thẩm còn căn cứ vào một số chứng cứ như nhân chứng xác nhận do ông Thức cung cấp; 2 công văn trả lời của UBND xã Trường Xuân và UBND xã Vĩnh Bửu gửi TAND huyện Tân Hưng với nội dung cho rằng: Phần đất tranh chấp do ông Xe và con ông sử dụng từ năm 1986 – nay; bên cạnh đó, Trưởng phòng TN&MT huyện Tân Hưng là ông Phạm Thanh Hùng cho biết khi xét cấp GCN QSDĐ cho ông Trí là cấp theo hình thức đại trà, không đo đạc thực tế… từ đó TAND huyện Tân Hưng đã bác đơn yêu cầu đòi quyền sử dụng đất của ông Trí.

Tuy nhiên, với những chứng cứ mà ông Thức cung cấp cho Tòa án đã phát hiện nhiều dấu hiệu bất thường! Theo đó, công văn số 58/UBND ngày 04/6/2015 của UBND xã Trường Xuân gửi TAND huyện Tân Hưng đã dựa trên cơ sở cán bộ xã lấy lời khai của chỉ 2 nhân chứng là ông Trần Văn Đồng (SN 1924 – hiện nằm một chỗ, không còn minh mẫn) và ông Nguyễn Văn Lưu (SN 1955) kèm một số Giấy xác nhận do chính ông Thức cung cấp được làm với hình thức rất “bài bản”. Tuy nhiên, điều “bất thường” là trong số những nhân chứng do xã xác minh và Giấy xác nhận do ông Thức cung cấp, có nhiều người từng công tác chung với ông Thức. (ông Thức từng là Trưởng Công an xã Trường Xuân). Như vậy những người làm chứng này là không khách quan, không hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về người làm chứng.

            Còn ông Nguyễn Văn Chơi (SN 1959, ngụ Tháp Mười, Đồng Tháp) cho biết, ông có ký vào Giấy xác nhận tại nhà do ông Thức soạn sẳn đưa. Tuy nhiên, ông không nhớ chính xác năm ông đốn tràm mướn cho ông Xe và cũng không đến UBND xã xác nhận nhưng không biết từ cơ sở nào, ông Thức lại đưa vào là năm 2003 ông đốn tràm mướn và Phó Chủ tịch UBND xã Trường Xuân là Dương Văn Kiệt đã ký xác nhận.

            Công văn số 58/CV-UBND ngày 8/6/2015 của UBND xã Vĩnh Bửu gửi TAND huyện Tân Hưng cũng căn cứ trên một số lời khai nhân chứng và những Giấy xác nhận do chính ông Thức cung cấp. Trong đó, qua xác minh, ông Lê Văn Lô (SN 1935, ngụ Tân Hưng, Long An) và người nhà ông khẳng định ông Lô không ký tên vào Giấy xác nhận của ông Thức, cũng như chưa bao giờ ra UBND xã để xác nhận nhưng không biết từ đâu, ông Thức lại “hô biến” ra Giấy xác nhận của ông và được ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Bửu (nay là Bí thư xã) xác nhận.

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                  Cùng năm 2015, trong khi ông Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Bửu xác nhận tất cả nhân chứng cho ông Thức thì tôi chỉ yêu cầu xác nhận chữ ký của 4 nhân chứng thôi nhưng ông Tuấn không xác nhận dù cả 4 nhân chứng đều có mặt tại đó. Ông Tuấn cho rằng chuyện quá khứ ông không biết và không chịu xác nhận cho tôi trong khi lại xác nhận chữ ký của những người làm chứng cho ông Thức. Điều này cho thấy dấu hiệu không khách quan, có sự bao che từ UBND xã đến Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng trong vụ án thiếu minh bạch, khách quan này.

Qua xác minh thực tế, một loạt các nhân chứng khác có đất canh tác liền kề với ông Trí và ông Xe khẳng định phần đất đang tranh chấp là của ông Trí sử dụng từ trước năm 2002, đến năm 2003, ông Xe mới mượn của ông Trí trồng tràm, 4 nhân chứng trước đây ông Tuấn không xác nhận đã được PCT hiện nay là ông Lế xác nhận.

5/. Tôi là người đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp lệ và đã đóng biên lai thuế cụ thể vào các năm 2007, 2010, 2014 và hoàn tất các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước vì đó là đất của tôi đã cho ông Xe mượn (các biên lai thuế hàng năm tôi đã gửi cho Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng). Nếu là đất của ông Xe sao ông Thức không đóng thuế hàng năm như tôi?

Theo quy định pháp luật đất đai thì chủ sử dụng đất mới là người phải đóng thuế hàng năm, người không đóng thuế hàng năm, không có biên lai thì không có cơ sở xem xét cấp đất nông nghiệp. Vậy hàng chục năm nay tôi là người đóng thuế đất, gia đình bà Gần không hề đóng khoản tiền nào nhưng Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng lại xét xử công nhận đất cho ông Xe là vi phạm pháp luật đất đai nghiêm trọng.

Trước khi cấp đất cho tôi UBND đã tiến hành xác minh, đối chiếu và tiến hành thực địa của toàn cán bộ, có ý kiến của cán bộ địa chính xã, ý kiến của hội đồng đăng ký, xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 24/12/1999 UBND xã Vĩnh Đại (đính kèm hồ sơ với đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/12/1999 của tôi),. Ngoài ra là bảng danh sách các hộ gia đình và cá nhân đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tờ trình số 08/TT.UB ngày 24/12/1999 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, hộ gia đình trong xã" của UBND xã Vĩnh Đại, Biên bản xét duyệt của Hội đồng đăng ký QSD đất ngày 24/12/1999 của UBND xã Vĩnh Hưng (các văn bản chứng cứ này đã nộp cho tòa án sơ thẩm). Trong tất cả các văn bản này thì UBND xã Vĩnh Ddại đều thừa nhận đã tiến hành xác minh, phân loại, thẩm tra, thảo luận và thống nhất đề nghị UBND huyện Tân Hưng cấp đât cho 248 hộ dân, trong đó có hộ ông Trí. Do vậy việc đại diện UBND huyện Tân Hưng cho rằng đất cấp theo đại trà là không có cơ sở bởi việc cấp đất này đã được UBND xã Vĩnh Đại thẩm tra, xem xét, đối chiếu, thảo luận và công khai, xác minh cụ thể theo như các văn bản, chứng cứ nêu trên.

Cụ thể, tại văn bản số 108/PTNMT - TC ngày 30/6/2016 về việc phúc đáp công văn số 734/TA- CV ngày 14/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An thì UBND huyện trả lời tòa án nhân dân tỉnh Long An cụ thể như sau:

“....ngày 19/1/2000, ông Lê Văn Trí được UBND huyện Tân Hưng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành Q 219764, số vào sổ: 1628, thửa đất 171, tờ bản đồ số 19, với diện tích: 34370m2, mục đích sử dụng: đất rừng sản xuất (RSM), vịu trí khu đất: xã Vĩnh Đại, huyện Tân Hưng, Long an.

Trước khi được cấp giấy cho ông Lê Văn Trí thì thửa đất số 171, tờ bản đồ số 19 do ông Trí quản lý sử dụng...”

Từ các căn cứ trên có thể khẳng định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho ông Trí là hợp lệ, phù hợp với thực tế vì đây là đất của ông Trí.

Trên đây là ý kiến bổ sung của tôi ngoài những ý kiến trước đây tôi đã nộp cho Tòa án nhân dân huyện Tân Hưng và Tòa án nhân dân tỉnh Long an.

Tôi cũng đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử sớm vì tôi đã nộp bản xác nhận của những người làm chứng cho tòa án, có xã xác nhận chữ ký của những người làm chứng.

Vụ án đã kéo dài quá lâu, trong khi theo pháp luật tố tụng dân sự thì thời gian xét xử phúc thẩm chỉ từ 2-3 tháng.

Kính mong Q úy tòa sớm xem xét, chấp nhận yêu cầu của tôi.

Trân trọng cảm ơn.

                                                                        Long an, ngày 28  tháng 10  năm 2016

                                                                                                Người bào chữa

 

                                                                                                LUẬT SƯ TRẦN MINH HÙNG - ĐOÀN LSTPHCM

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006