Luật Sư Chuyên Hình Sự

Có phải chỉ cần nộp 3/4 tài sản là không bị tử hình?

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Nội dung này được Ban biên tập Thư Ký Luật tư vấn như sau:

 

  • Căn cứ Điều 40 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, quy định về hình phạt tử hình như sau:

    Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.

    Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

    Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    - Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

    - Người đủ 75 tuổi trở lên;

    - Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

    Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.

    Như vậy căn cứ quy định của pháp luật hiện hành thì việc nộp 3/4 tài sản để được ân giảm không thi hành hình phạt tử hình chỉ áp dụng với các tội danh tham ô tài sản, tội nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn chứ không phải tất cả các loại tội phạm.

    Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà anh thắc mắc.

    Trân trọng!

ls hung 2222

LS TRẦN MINH HÙNG TRÊN TRUYỀN HÌNH VĨNH LONG

Luật sư chuyên sâu về hình sự của sẽ cung cấp dịch vụ luật sư tham gia từ giai đoạn khởi tố, điều tra

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư chuyên sâu về hình sự của sẽ cung cấp dịch vụ luật sư tham gia từ giai đoạn khởi tố, điều tra:

  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ trong trường hợp bắt người khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã từ khi có quyết định tạm giữ.
  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can từ khi có quyết định khởi tố bị can.
  • Tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho bị cáo từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
  • Tham gia tố tụng hình sự trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, tuy tố, xét xử theo yêu cầu của Cơ quan tiến hành tố tụng trong các vụ án chỉ định (các vụ án mà bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử ở khung hình phạt có mức án cao nhất; các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần…)
  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì Luật sư của có thể thay mặt họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự.
  • Tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.

Thông tư 70/2011/TT-BCA của Bộ Công an quy định điều tra viên phải thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung cho luật sư trước 24 giờ hoặc trước 48 giờ với người bào chữa ở xa. Như vậy với sự có mặt của luật sư sẽ giúp việc hỏi cung, lấy lời khai diễn ra theo đúng quy định, tạo một đối trọng với điều tra viên, tránh được tình trạng bức cung, dùng nhục hình hoặc mớm cung, từ đó tránh được những vụ án oan sai.

Luật sư hình sự sẽ làm những công việc sau để bảo đảm tốt nhất cho bị can, bị cáo trong giai đoạn khởi tố, điều tra.

  • Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định;
  • Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
  • Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
  • Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
  • Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
  • Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
  • Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.

Dịch vụ luật sư bào chữa cho bị cáo trong giai đoạn xét xử

Luật sư là một yếu tố không quan trọng trong việc điều tra các vụ án hình sự. Luật sư hình sự tham gia từ giai đoạn điều tra, truy tố đóng vai trò quan trọng trong quá trình xét xử, góp phần vào việc giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật, giúp bảo vệ quyền công dân, quyền con người của thân chủ, thực hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.

 

CCHC8

 

LS TRẦN MINH HÙNG TRÊN HTV

  Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ Tâm của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài truyền hình, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước  tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Truyền hình SCTV, THĐN, Truyền hình Quốc Hội VN, Truyền hình Công an ANTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Đài phát thanh kiên giang... và các hãng báo chí trên cả nước, được các tổ chức, trường Đại học Luật TP.HCM mời làm giám khảo các cuộc thi Phiên tòa giả định với Đại học cảnh sát, mời làm chuyên gia ý kiến về các sự kiện……là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...là luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ Ngân hàng Navibank, Huyền Như, Viettinbank, các vụ Giết Người do mâu thuẫn hát karaoke tại Bình Chánh, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành- Dầu Dây, Bào chữa bị cáo Huân không đeo khẩu trang mùa Covit, Vụ Nữ sinh Tân Bình bị cắt tai, bảo vệ cho MC Trấn Thành, Bào chữa, bảo vệ vụ "Bác sĩ khoa rút ống thở", Bảo vệ cho người cho thuê nhà vụ Công ty Thế giới Di Động không trả tiền thuê nhà mùa dịch covid, Tư vấn cho nghệ sĩ Thương Tín, bảo vệ vụ đổ xăng đốt 10 người tại TPHCM, các vụ Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, cưỡng đoạt, cướp, gây thương tích, tham ô, mua bán ma túy, cố ý làm trái.… và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi..…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Trân trọng cảm ơn.

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự 2015

Trộm cắp tài sản là một tội phổ biến trong đời sống hằng ngày xuất phát từ việc người phạm tội vì lòng tham mà muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để làm của riêng của mình một cách bất hợp pháp. Luật hình sự Việt Nam quy định rõ về tội trôm cắp tài sản trong điều 173 bộ luật hình sự 2015 và mức hình phạt tương ứng.

Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 BLHS 2015 SĐ, BS 2017.

Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút bí mật chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là di vật, cổ vật.

Dấu hiệu pháp lý

Khách thể của tội phạm

Tội xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân.

Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi trộm cắp tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau:

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội: Tội cướp tài sản (Điều 168), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ( Điều 169), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170), Tội cướp giật tài sản (Điều 171), Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) và Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản ( Điều 290) của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

-Trộm cắp tài sản của người khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật.

Tội trộm cắp tài sản hoàn thành từ thời điểm người phạm tội chuyển dịch được tài sản thoát khỏi sự quản lý của người quản lý tài sản.

Trên thực tế, việc xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm phụ thuộc vào tính chất tài sản dễ hay không dễ cất giấu và vị trí nơi để tài sản (nơi để trong người, ngoài sân, ngoài bãi, dọc đường đi…)

Mặt chủ quan của tội phạm

Tội trộm cắp tài sản được thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ phạm tội là vụ lợi.

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, từ đủ 16 tuổi trở lên đối với trường hợp phạm tội tại khoản 1, 2; từ đủ 14 trở lên đối với trường hợp phạm tội tại khoản 3, 4 Điều 173 BLHS.

Hình phạt

Khung hình phạt tại Khoản 1:

Có mức hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan.

Khung hình phạt tại Khoản 2:

Có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Được áp dụng đối vối một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

-Có tổ chức;

-Có tính chất chuyên nghiệp;

-Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

-Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

-Hành hung để tẩu thoát;

-Tài sản là bảo vật quốc gia;

-Tái phạm nguy hiểm.

Khung hình phạt tại Khoản 3:

Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Được áp dụng đối vói một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

-Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

-Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Khung hình phạt tại Khoản 4:

Có mức phạt tù từ mười hai đến hai mươi năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:

-Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

-Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

-Hình phạt bổ sung (khoản 5)

Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

Trên đây là những quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản quý khách có nhu cầu thuê luật sư để bào chữa bảo vệ trong các vụ án hình sự hãy nhấc máy gọi cho luật sư chúng tôi.

 

htv999

LS TRẦN MINH HÙNG TRÊN HTV

Viện kiểm sát quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giam

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Viện kiểm sát quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giam

Ngày 2/12/2020, VKSND TP Cần Thơ ban hành Quyết định trả tự do cho người bị tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật.

Sau khi nhận được văn bản trả lời thỉnh thị của Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (Vụ 8), VKSND tối cao, ngày 2/12/2020, VKSND TP Cần Thơ đã ban hành Quyết định trả tự do cho người bị tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật.

Theo quyết định, ngày 27/4/2018, Đặng Trần Đan Duy bị TAND quận Cái Răng, TP Cần Thơ tuyên phạt 1 năm 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 3 năm về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo Bản án hình sự số 23.

 Đến ngày 29/11/2018, Đặng Trần Đan Duy bị TAND quận Ninh Kiều tuyên phạt 2 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt  bản án số 23 của TAND quận Cái Răng, buộc  bị cáo Đặng Trần Đan Duy phải chấp hành là 3 năm 6 tháng tù giam theo bản án số 295 của TAND quận Ninh Kiều. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 13/8/2018, được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 2/9/2017 đến ngày 13/2/2018.

Ngày 7/1/2019, TAND quận Ninh Kiều ban hành Quyết định thi hành án phạt tù đối với Đặng Trần Đan Duy và Duy được đưa đi chấp hành tại Trại giam Phước Hòa, đóng tại tỉnh Tiền Giang.

Ngày 27/2/2019, VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh kháng nghị giám đốc thẩm bản án hình sự sơ thẩm số 23 nêu trên của TAND quận Cái Răng, đề nghị TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm theo hưởng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung đối với Đặng Trần Đan Duy về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Ngày 3/5/2019, TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm, quyết định hủy bản án sơ thẩm số 23 của TAND quận Cái Răng và chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Ngày 13/8/2020, cơ quan quản lý THAHS Bộ Công an ra Lệnh trích xuất phạm nhân Duy từ Trại giam Phước Hòa đến Nhà tạm giữ Công an quận Cái Răng. Thời hạn trích xuất: 2 tháng, kể từ ngày 24/8/2020 đến 24/10/2020. Ngày 20/10/2020, cơ quan quản lý THAHS Bộ Công an ra lệnh gia hạn trích xuất lần thứ nhất đối với Duy, thời hạn 2 tháng, kể từ ngày 25/10/2020 đến ngày 25/12/2020.

Đồng chí Hồ Trần Phương, Trưởng phòng 8, VKSND TP Cần Thơ  công bố  quyết định, kế hoạch kiểm sát Nhà tạm giữ Công an quận Cái Răng. (Ảnh: VKSND TP Cần Thơ)

Ngày 20/11/2020, TAND quận Cái Răng xét xử sơ thẩm tuyên phạt Đặng Trần Đan Duy 1 năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo bản án sơ thẩm số 96 năm 2020. Tổng hợp 2 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án số 295 năm 2018 của TAND quận Ninh Kiều, buộc Đặng Trần Đan Duy chấp hành  hình phạt chung là 3 năm tù.

Trong quá trình chấp hành án tại Trại giam Phước Hòa, Đặng Trần Đan Duy được TAND tỉnh Tiền Giang xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù 3 tháng.

Thực hiện công tác kiểm sát, VKSND TP Cần Thơ nhận thấy, ngay khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm ngày 20/11/2020, Hội đồng xét xử TAND quận Cái Răng ban hành Quyết định tạm giam 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để bảo đảm thi hành án đối với Duy, thời hạn tạm giam sẽ hết hạn vào ngày 4/1/2021. Tuy nhiên, đến hết ngày 1/12/2020, Đặng Trần Đan Duy đã chấp hành xong án phạt 3 năm tù giam theo bản án số 96/2020 của TAND quận Cái Răng.

Vì vậy, nếu tiếp tục tạm giam Đặng Trần Đan Duy theo quyết định của Hội đồng xét xử TAND quận Cái Răng là không có căn cứ và trái pháp luật; Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người đang bị giam giữ, VKSND TP Cần Thơ đã ban hành quyết định trả tự do ngay cho Đặng Trần Đan Duy (SN 1985, trú tại phường An Hòa, quận Ninh Kiều), theo khoản 2 Điều 22 và Điều 24 Luật tổ chức VKSND.

Điều 22. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam

 

2. Khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
 

a) Trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam; hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam;

b) Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam;

c) Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam;

d) Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật;

đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật;

e) Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật;

g) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: Baovephapluat.vn

Một số vấn đề chung về chủ thể của tội phạm tình dục

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

1. Một số vấn đề chung về chủ thể của tội phạm tình dục

Có thể hiểu, tội phạm tình dục là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, được Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý, xâm phạm trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của con người và trật tự an toàn xã hội. Khách thể loại tội phạm này xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về tình dục của con người; nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của con người và ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Được thể hiện qua các hành vi như: Dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực; hoặc các thủ đoạn khác, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người khác tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người khác (có thể là đồng giới hoặc khác giới), dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm.

Như vậy, tội phạm tình dục xâm hại đến các khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Các tội phạm này không chỉ làm tổn hại đến nhân phẩm, danh dự, uy tín của con người mà còn làm băng họa đạo đức xã hội, mà còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, thâm chí đối với các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em làm ảnh hưởng và tổn hại nghiêm trọng đến tinh thần, sức khỏe, thể chất, nhân cách và sự phát triển bình thường của trẻ em gây nên những bất bình và căm phẫn trong xã hội. Có thể thấy, một tỉ lệ lớn nạn nhân hóa trong các tội phạm tình dục là nạn nhân bị hiếp dâm do chính những người thân quen, đặc biệt là khi nạn nhân là trẻ em. Tội phạm cưỡng dâm cũng thường đòi hỏi người phạm tội phải có mối quan hệ quen biết, hiểu rõ nạn nhân để nắm được các điểm yếu của nạn nhân qua đó, khống chế nạn nhân, buộc nạn nhân phải miễn cưỡng giao cấu (1).

Từ những vấn đề lý luận, có thể thấy, chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật hình sự quy định. Ngoài ra, điểm mới của Bộ luật Hình sự hiện hành đã quy định, chủ thể còn là pháp nhân thương mại.

Như vậy, chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi. Đây cũng là điều kiện để họ có lỗi. Hơn nữa, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là chủ thể chỉ nhận thức và điều khiển hành vi khi ở độ tuổi nhất định. Và luật hình sự Việt Nam quy định: Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; Người đủ 14 đến dưới 16 chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Từ những phân tích trên, có thể hiểu chủ thể của tội phạm tình dục là con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội một cách cố ý, xâm phạm trực tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục con người; nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của con người; trật tự an toàn xã hội trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật hình sự quy định và phải chịu trách nhiệm hình sự.

Tội phạm tình dục diễn ra ngày càng phổ biến với những mức độ nghiêm trọng, xâm hại đến những giá trị, quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Chủ thể của tội phạm này mang một số điểm đặc trưng như sau:

Thứ nhất, chủ thể của tội phạm tình dục mang những đặc điểm chung về chủ thể của tội phạm. Đó là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đây là một đặc điểm khách quan được ghi nhận chính thức trong khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Và chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện một cách cố ý, đồng thời, chủ thể phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, chủ thể của tội phạm tình dục mang những đặc trưng riêng của loại tội phạm này. Một là, chủ thể của tội phạm tình dục xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm, thậm chí là sức khỏe của con người. Đó là các thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu về uy tín, danh dự, nhân phẩm. Hai là, chủ thể của tội phạm tình dục xâm hại đến cả trật tự an toàn xã hội, an toàn công cộng.

Thứ ba, chủ thể của tội phạm tình dục có đa dạng như người lạ, người thân hoặc người có mối quan hệ với nạn nhân. Qua các nghiên cứu cho thấy, hành vi tấn công tình dục thường được thực hiện bởi người quen và gần nhà nạn nhân.

Một số hành vi tiềm ẩn nguy cơ (đi xe với người lạ, uống rượu trong các bữa tiệc…) khiến tăng khả năng nạn nhân dễ bị tấn công tình dục. Nhân cách trong tội phạm tình dục gồm: giận dữ (sử dụng nhiều hành vi bạo lực, làm nhục lên nạn nhân), khống chế (thường bắt cóc, giam cầm, kiểm soát, áp chế nạn nhân) và bạo dâm (2). Như vậy, mối liên hệ giữa loại tội phạm với hậu quả của tội phạm mà nạn nhân phải gánh chịu sẽ có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ nguyên nhân của tình trạng nạn nhân hóa, từ đó có các biện pháp phòng ngừa tội phạm và phòng tránh nguy cơ nạn nhân hóa với một số nhóm đối tượng nhất định.

Thứ tư, chủ thể của tội phạm tình dục thường có sự tha hóa về nhân cách, đạo đức, coi thường danh dự, nhân phẩm người khác. Có thể thấy, với tội phạm tình dục, để lựa chọn nạn nhân trong một tình huống nạn nhân hóa cụ thể, người phạm tội thường phải có một quá trình hoặc một giai đoạn tìm kiếm, lựa chọn nạn nhân, xác định sự phù hợp giữa nạn nhân với mục đích của tội phạm và khả năng thực hiện của tội phạm. Và khi chúng tìm được nạn nhân thích hợp, chúng sẽ thực hiện hành vi vi phạm xâm hại nạn nhân.

Thứ năm, chủ thể của tội phạm tình dục luôn bị xã hội lên án, tố cáo và bất bình, hơn nữa, chủ thể của tội phạm tình dục phần nhiều có nhân thân không tốt, nên dễ dàng thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm.

2. Chủ thể của tội phạm tình dục trong pháp luật hình sự Việt Nam

Pháp luật hình sự đã thể hiện và luật hóa cấu thành tội phạm tình dục rất cụ thể và phù hợp với sự biến đổi của xã hội hiện nay, với mỗi một tội danh về tình dục, Bộ luật Hình sự hiện hành có những mô tả về hành vi về từng tội giúp phản ánh chính xác động cơ, hành vi, tình tiết có liên quan đến các tội phạm tình dục. Bộ luật Hình sự hiện hành đã quy định về các tội phạm tình dục với các tội danh như tội “Hiếp dâm”, tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, tội “Cưỡng dâm”, tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi”… Đây là các tội phạm điển hình về tình dục và với mỗi tội danh thì pháp luật đều có những quy định về chủ thể của loại tội này dưới góc độ yếu tố cấu thành tội phạm. Từ đó, các quy định của pháp luật nhằm cá thể hóa từng tội phạm, cụ thể chủ thể của từng tội danh bảo đảm việc điều tra, xử lý và giải quyết được thuận lợi và khách quan.

Thứ nhất, tội “Hiếp dâm” (Điều 141), tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” (Điều 142), tội “Cưỡng dâm” (Điều 143), tội “Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” (Điều 144), đây là các tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng xâm hại đến sức khỏe, tổn thất về danh dự, nhân phẩm, thậm chí là sự phát triển tâm sinh lý bình thường của trẻ em nên pháp luật hình sự quy định chủ thể của các tội phạm này là người đủ 14 tuổi trở lên nếu thực hiện hành vi phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm về tội phạm mà mình đã gây ra.

Thứ hai, tội “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi” (Điều 145), tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi” (Điều 146). Đây là các tội danh mà pháp luật hình sự quy định độ tuổi của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là đủ 18 tuổi trở lên có hành vi phù hợp với cấu thành tội phạm của các tội danh đó sẽ phải chịu trách nhiệm trước hành vi phạm tội đã gây ra cho bị hại… Như vậy, các cấu thành tội phạm này đã phản án tính chất, mức độ nguy hiểm, thủ đoạn, cách thức đa dạng của loại tội phạm này để đề ra các biện pháp phòng chống và xử lý nghiêm minh, hiệu quả.

Dưới những tác động tiêu cực và phản ánh tính chất nguy hiểm của xã hội. Tội phạm tình dục gây ra nhiều bất bình, ám ảnh cho các chủ thể trong xã hội, vì vậy, việc nghiên cứu về các đặc điểm, đặc trưng liên quan đến chủ thể của tội phạm tình dục mang lại nhiều ý nghĩa và giá trị lớn.

Thứ nhất, cung cấp và hoàn thiện về cơ sở lý luận, thực tiễn về chủ thể của các tội phạm tình dục. Việc đẩy mạnh nghiên cứu và tìm hiểu về chủ thể của tội phạm tình dục nhằm mục đích cung cấp các dữ liệu khoa học cho việc xây dựng và không ngừng bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận trong việc xác định và làm rõ chủ thể tội phạm tình dục được quy định trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Trên cơ sở đó góp phần làm sáng tỏ các vấn đề thực tiễn liên quan tới chủ thể của các tội phạm tình dục.

Thứ hai, hiểu hơn về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm tình dục. Tội phạm tình dục không chỉ xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về tình dục của con người, mà còn chà đạp lên nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của con người. Chính điều này đã làm suy giảm về đạo đức, văn hóa con người trong cuộc sống; gây mất trật tự chung an toàn xã hội.

Thứ ba, nâng cao hiểu biết của người dân về việc dấu hiệu, cách nhận biết về chủ thể của loại tội phạm này để có sự đề phòng, cảnh giác. Hơn nữa, giúp tăng cường hiểu biết, dấu hiệu về chủ thể tội phạm tình dục và giáo dục kỹ năng sống cho người dân, trẻ em về cách bảo vệ bản thân và phòng tránh nguy cơ biến mình trở thành nạn nhân của tội phạm tình dục.

Thứ tư, giúp quá trình xác minh, điều tra các chủ thể của tội phạm tình dục là tội phạm ẩn được dễ dàng hơn.

Thứ năm, có hiểu biết khoa học về hành vi, biểu hiện của những chủ thể có dấu hiệu của tội phạm tình dục sau khi đã thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ sáu, hoàn thiện được cơ chế xử lý và có các biện pháp phòng ngừa, phòng chống, răn đe tội phạm đạt hiểu quả. Việc hoàn thiện các chế tài xử phạt nghiêm khắc không chỉ nhằm mục đích trừng phạt nghiêm người phạm tội mà còn hướng tới việc giáo dục răn đe những kẻ xấu đang manh nha mấp mé bên bờ vực của tội phạm nhằm hạn chế những vụ án liên quan tới tình dục và góp phần nâng cao việc bảo vệ, phòng ngừa và phòng chống tội phạm tình dục một cách hiệu quả hiện nay.

3. Một số vấn đề đặt ra về chủ thể của tội phạm tình dục hiện nay

Thứ nhất, tội phạm tình dục xuất hiện ngày càng nhiều. Với sự phát triển của xã hội, nhiều vấn đề đang nảy sinh ngày một nhiều, sự tha hóa, xuống cấp của một số đối tượng về đạo đức xã hội bất chấp thuần phong mỹ tục, luân thường đạo lý xâm hại đến những giá trị và chuẩn mực xã hội gây nên nhưng hệ lụy cho xã hội. Tội phạm tình dục ngày càng gia tăng về số vụ và số nạn nhân bị xâm hại, nhất là trẻ em, ngoài ra còn nhiều tội phạm ẩn mà chưa được phát hiện và tố giác bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân như đạo đức, văn hóa, xấu hổ, đe dọa, tự thỏa thuận… Đây thực sự là vấn đề cần được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn nhằm có những giải pháp phòng ngừa chung.

Thứ hai, chủ thể của tội phạm tình dục xuất phát từ nhiều nguyên nhân và yếu tố tác động khác nhau. Do sự xuống cấp về đạo đức của một số ít người cũng là nguyên nhân chính gây ra tình trạng xâm hại tình dục trẻ em; những người này thường là không nhận thức được trách nhiệm và bổn phận của mình đối với các thành viên khác trong xã hội, nhiều trường hợp do coi thường pháp luật, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác, các đối tượng này phần lớn có lối sống buông thả, sống gấp, lêu lổng thiếu tu dưỡng, chế ngự bản thân; đối tượng và nạn nhân thường có mối quan hệ như cha con, họ hàng, thầy trò, hàng xóm hoặc quen biết nên có điều kiện gần gũi nạn nhân, do đó nạn nhân không có sự cảnh giác, lợi dụng vắng vẻ, khi không có sự quan tâm, giám sát của người lớn hoặc do nạn nhân bồng bột, dễ dãi trong việc kết bạn, làm quen…

Thứ ba, chủ thể của tội phạm tình dục gây nên những đau đớn, tổn thương nghiêm trọng về thể xác, nhân cách, danh dự, nhân phẩm, sự phát triển bình thường, nhất là với trẻ em. Thực tế cho thấy, nạn nhân của tội phạm tình dục là trẻ em. Trẻ em là thế hệ tương lai của đất nước nhưng lại là nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội nên các em còn quá non nớt để bảo vệ mình và nhận thức được những nguy hiểm xung quanh đang rình rập.

Vì vậy, nhiều đối tượng đã lợi dụng và sử dụng những mánh khóe, thủ đoạn như: Cho kẹo, dẫn đi chơi, thay bố mẹ đón con tại cổng trường, tự nhận là người thân… để xâm hại các em.

Thời gian qua, cả xã hội bất bình và đau xót khi chứng kiến những hành vi đồi bại của những đối tượng xâm hại tình dục trẻ em gây nên hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, gây băng họa đạo đức xã hội. Cụ thể, chiều 19/4, Công an huyện Tuy Phong, Bình Thuận cho biết, đã bắt được Nguyễn Quốc Lâm (38 tuổi, trú ở thị trấn Liên Hương, Tuy Phong) để điều tra về hành vi hiếp dâm cháu bé Đ.T.T.V. (02 tuổi) (3). Ngoài ra, còn nhiều vụ án nghiêm trọng khác…

Thứ tư, mức độ nghiêm trọng và nguy hiểm của hành vi phạm tội tăng lên rõ rệt. Gần đây, cho thấy các vụ án đang có mức độ nghiêm trọng ngày một tăng dần. Không chỉ dừng lại ở hành vi hiếp dâm mà theo đó tiếp nối hành vi khác đặc biệt nghiêm trọng như giết người để bịt đầu mối, tước đoạt mạng sống của nạn nhân. Điều này không chỉ chà đạp lên nhân phẩm, danh dự, sức khỏe con người mà còn xâm phạm tới tính mạng con người được pháp luật hình sự bảo vệ. Tháng 10/2009, tại cánh đồng Bông (đối diện bến xe Mỹ Đình) đã xảy ra một vụ án mạng nghiêm trọng. Nạn nhân là ông Ngô Văn Tiến (46 tuổi, Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty bảo vệ Đại Hoàng Gia) bị sát hại, Công an đã bắt giữ Đào Văn Hiếu sinh năm 1991 thường trú tại tỉnh Hưng Yên. Nạn nhân và đối tượng có mối quan hệ đồng tính. Hiếu đã đâm nhiều nhát vào nạn nhân khiến nạn nhân tử vong. Thực hiện xong hành vi phạm tội, Hiếu đã bỏ trốn nhằm trốn tránh pháp luật (4). Ngoài ra, còn nhiều vụ án khác trong thời gian quan liên quan đến xâm hại tình dục trẻ em và tước đoạt mạng sống của trẻ sau khi xâm hại được phản án trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Thứ năm, đã xuất hiện những hành vi tình dục mới (hành vi tình dục khác). Đây là vấn đề liên quan đến hành vi tình dục khác mới được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành, nó xuất hiện cả ở những người có cùng giới tính (nam giới xâm hại nam giới, nữ giới xâm hại nữ giới, những người có quan hệ đồng tính thuộc cộng đồng LGBT).

Trong sự phát triển của xã hội, tình dục đồng giới ngày càng xuất hiện nhiều với tính chất phức tạp. Vì vậy, quan niệm về tình dục, xâm hại tình dục đã có sự thay đổi so với trước đây (chỉ giữa nam và nữ), giữa những người có khác giới tình với nhau thì hiện nay quan niệm đó đã được thay đổi để bắt kịp với sự phát triển của xã hội. Vì vậy, có nhiều hành vi phạm tội về tình dục mới xuất hiện như hành vi tình dục khác xuất hiện cả giữa những người cùng giới tính nên gây khó khăn trong công tác điều tra, xử lý tội phạm, ở đây liên quan đến cộng đồng LGBT.

Khi tìm hiểu, nhiều nạn nhân là người LGBT của tội phạm chưa được bảo vệ do mối quan hệ của cộng đồng LGBT trong xã hội có phần phức tạp có những mối quan hệ đồng giới chủ yếu liên quan đến vấn đề tình dục và nhu cầu của bản thân, họ tham gia vào các vấn đề tình cảm đặc thù liên quan đến giới và xu hướng tính tình dục của họ nên dễ bị lợi dụng, lạm dụng, nghiêm trọng hơn là bị tước đoạt quyền sống. Vì vậy, nạn nhân là người LGBT bị người cùng giới xâm hại tình dục nên họ che giấu, không dám tố cáo tội phạm, một phần vì danh dự, một phần vì khó khăn khi tố cáo tội phạm do bị đe dọa, trả thù. Tuy nhiên, để khắc phục vấn đề đó, pháp luật đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về những hành vi, tình tiết có liên quan đến xâm hại tình dục không kể đồng giới hay khác giới sẽ tạo điều kiện giải quyết khách quan, bảo đảm tính có căn cứ, không bỏ sót tội phạm hoặc không có quy định để giải quyết như trước đây (ví dụ, cả nạn nhân và người phạm tội đều làm nam giới).

Thứ sáu, chủ thể của tội phạm tình dục theo quan niệm truyền thống thường (chỉ có thể) là nam giới, nữ giới không thể là người đi xâm hại tình dục người khác. Tuy nhiên, không chỉ có phụ nữ mà tình trạng nhiều nam giới cũng chính là nạn nhân của tội phạm tình dục, nam giới bị xâm hại, bạo lực tình dục do nam giới khác gây ra, thậm chí còn do nữ giới gây ra các hành vi xâm hại tình dục. Thời gian qua, nhiều vụ án xâm hại tình dục xảy ra mà người phạm tội là phụ nữ, ví dụ, phụ nữ xâm hại trẻ em nam hay một vụ việc nhận được sự quan tâm của dư luận tại Trung Quốc khi 03 người phụ nữ cùng nhau xâm hại tình dục một nam sinh 19 tuổi.

Thứ bảy, giữa người phạm tội và nạn nhân của tội phạm có quan hệ với nhau về huyết thống, hàng xóm quen biết, trong lĩnh vực lao động, giáo dục… nhiều trường hợp còn là người thân thiết trong gia đình của nạn nhân. Đây là những chủ thể có mối quan hệ gần gũi, thân thiết với nạn nhân (thường là trẻ em).

Việc có quan hệ gần gũi đó tạo điều kiện cho các đối tượng dễ dàng thực hiện hành vi của mình mà không bị nghi ngờ và phát hiện. Đây là vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân cách, đạo đức, truyền thống gia đình Việt Nam, có tính chất loạn luận trong nhiều trường hợp  người phạm tội là bố, là ông, bố dượng, mẹ kế, thầy giáo… của trẻ.

Đây là những người có trách nhiệm và nghĩa vụ giáo dục, chăm sóc trẻ nhưng lại đi ngược với đạo đức, thiên chức của con người. Thời gian qua, nhiều vụ việc gây đau lòng dư luận và xã hội khi người thân chính là đối tượng gây nguy hiểm cho các em, không khó để tìm kiếm trên các phương tiện đại chúng các hành vi đồi bại như hành vi xâm hại tình dục đối với chính con đẻ, cháu ruột, thậm chí giữa thầy giáo với các em học sinh…, gây đau đớn trong quần chúng (5). Thời gian gần đây, có một số vụ án đau lòng khi nạn nhân của tội phạm tình dục là người thân thích của người đó, giữa họ có mối quan hệ huyết thống gây nên những căm phẫn trong xã hội, nhất là tội phạm tình dục trẻ em đã gây nên những tổn thương nghiêm trọng về thể chất, tinh thần và sự phát triển của trẻ em. Điều này thực sự gây nên những dư luận xã hội mạnh mẽ, bất bình và khó khăn trong việc bảo vệ vì trẻ em lại là nạn nhân trong chính gia đình của mình.

Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy vấn đề về tội phạm tình dục xuất hiện với những hành vi thủ đoạn, tính chất nghiêm trọng gây nên những tổn thất về nhân phẩm, danh dự con người. Thực tiễn cho thấy, trong thời gian qua việc đấu tranh phòng, chống tội phạm tình dục đạt được các kết quả đáng mừng như: Kịp thời xử lý các hành vi phạm tội để bảo vệ nạn nhân của tội phạm tình dục, công tác khởi tố điều tra và các giai đoạn tố tụng hình sự đã bảo đảm tính khách quan, công bằng, giải quyết đúng người đúng tội, đúng pháp luật đối với những người thực hiện hành vi phạm tội về tình dục. Hơn nữa, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm thường xuyên được quan tâm, các vụ án về hiếp dâm, cưỡng dâm, hiếp dâm trẻ em đã được xử lý kịp thời, nghiêm minh tạo được niềm tin của quần chúng và góp phần hiệu quả trong việc giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tình dục vẫn còn tồn tại một số khó khăn và hạn chế như hiểu biết pháp luật của một bộ phận người dân, đặc biệt là tại vùng sâu, vùng xa, biên giới còn hạn chế, họ chưa biết và hiểu các quyền, cách thức bảo vệ mình trước hành vi phạm tội nên có những nạn nhân không dám lên tiếng, tố cáo vì bị tội phạm đe dọa, uy hiếp nên làm cho việc phát hiện, xử lý gặp nhiều khó khăn, hơn nữa, nạn nhân còn sợ bị kỳ thi, xấu hổ nên con e ngại lên tiếng, tố giác tội phạm vì vậy để tội phạm vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật và tiếp tục thực hiện các hành vi phạm tội khác.

Ngoài ra, vấn đề tuyên truyền, phổ biến pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế, chủ yếu do người dân chưa được tiếp cận nhiều, phổ biến pháp luật vẫn mang tính hình thức, chưa được chú trọng, nội dung và phương pháp tuyên truyền chưa phù hợp với từng đối tượng. Đặc biệt, bản thân mỗi người vẫn chưa ý thức được vấn đề nguy hiểm của tội phạm, chủ quan, chưa cảnh giác như thường xuyên đi chơi, đi đến những khu vực vắng người, đi một mình, có các dấu hiệu làm cho mình dễ dàng biến thành nạn nhân của tội phạm và tạo điều kiện, tín hiệu cho tội phạm thực hiện hành vi xâm hại tình dục.

Tình hình tội phạm tình dục ở nước ta đang có chiều hướng gia tăng với những mức độ phức tạp và nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Trước những biến đổi, thay đổi về chủ thể và hành vi của tội phạm tình dục khác với các quan niệm truyền thống trước đây thì cần đặt ra các vấn đề có liên quan như: Có cần thiết nội luật hóa các cụm từ “xu hướng tính dục”, “bản dạng giới” để bảo vệ tốt hơn những người là nạn nhân của tội phạm tình dục cùng giới gây ra? Nếu người phạm tội là ông bà, cha mẹ, người thân thích của nạn nhân (trẻ em) thì cần xử lý như thế nào nhằm hạn chế, phòng ngừa và bảo đảm không làm tổn thương đến sự tâm lý, tình yêu thương mà trẻ em được nhận? Làm thế nào để nạn nhân của tội phạm tình dục mạnh mẽ hơn trong việc tố cáo người phạm tội để không để người phạm tội nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật để tiếp tục phạm tội? Do vậy, cần xây dựng các kế hoạch và biện pháp phòng chống loại tội phạm nguy hiểm này là rất cần thiết, quan trọng và quan tâm đến một số vấn đề sau:

Thứ nhất, tăng cường, tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của người dân, mỗi người dân tự mình thi hành, làm những gì mà pháp luật không cấm, nâng cao ý thức tôn trọng nhân phẩm, danh dự và sức khỏe của những người xung quanh. Bản thân mỗi cá nhân luôn tự nâng cao ý thức, trách nhiệm phòng chống tội phạm, luôn cảnh giác và tố cáo những hành vi có dấu hiệu của tội phạm để kịp thời ngăn chặn và xử lý. Hơn nữa, gia đình và xã hội cần nỗ lực quan tâm, hỗ trợ những người là nạn nhân của tội phạm tình dục để giảm bớt đi sự đau đớn, tổn thương về thể xác và tinh thần.

Thứ hai, thường xuyên tìm hiểu, tổng kết thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có liên quan đến tội phạm tình dục để biết những dấu hiệu, cách thức thực hiện và có kinh nghiệm xử lý trong các vụ án về sau. Ngoài ra, pháp luật cần hành lang pháp lý và chế tài xử lý nghiêm minh sẽ là tiếng chuông cảnh tỉnh, răn đe, giáo dục những người manh nha, mấp mé bên bờ vực của tội phạm. Đây là cách để các chủ thể có ý định thực hiện tội phạm tự răn đe, giáo dục và điều chỉnh hành vi của mình đúng quy định của pháp luật.

Thứ ba, cần có các biện pháp giáo dục, cải tạo nhân đạo, tuân thủ các quy định của pháp luật khi thi hành án hình sự đối với các chủ thể của tội phạm tình dục để họ nhận ra được các lỗi lầm, ý thức được hành vi của mình là gây nguy hiểm cho xã hội, tác động trực tiếp vào nhận thức của con người, giúp họ ăn năn, hối cải, lao động, cải tạo tốt để sớm tái hòa nhập cộng đồng, trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Thứ tư, đẩy mạnh tăng cường việc nghiên cứu khoa học hình sự, tội phạm học, làm rõ những vấn đề liên quan đến tình hình tội phạm tình dục, nguyên nhân, nạn nhân, dự báo tội phạm, và đi tới có các chiến lược phòng ngừa tội phạm tình dục được hiệu quả hơn. Có cơ chế xử lý linh hoạt, kịp thời, nhanh chóng để con người không thể, không giám và không muốn thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ năm, đẩy mạnh việc giáo dục về kỹ năng sống, giáo dục về giới tính ngay từ nhỏ cho trẻ em để các em nâng cao hiểu biết và có thể bảo vệ mình; đây chính là chiến lược phòng ngừa hiệu quả tội phạm thông qua sự phát triển của xã hội và các em sẽ có kỹ năng, cách thức phòng tránh được những tổn thương gây ra đối với các em.

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006