Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư chuyên tư vấn và bào chữa hình sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

1. Khái niệm và bản chất của giai đoạn tố tụng

1.1 Khái niệm về giai đoạn tố tụng

Giai đoạn ở Tố tụng hình sự là vấn đề đầu tiên mà khoa học Luật tố tụng hình sự cần phải làm rõ trước khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề về các giai đoạn tố tụng hình sự.

Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay (kể cả trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 cũng như trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 vừa được thông qua), nhà làm luật nước ta chưa bao giờ ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm này. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, dưới góc độ khoa học khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự có thể được định nghĩa là: bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật.

1.2 Bản chất pháp lý của giai đoạn tố tụng hình sự

Như vậy, khái niệm trên đây của một giai đoạn tố tụng hình sự cho phép khẳng định rằng, bản chất pháp lý của một giai đoạn tố tụng hình sự, với tính chất là bước của quả trình tiến hành tố tụng hình sự nhất thiết phải được thể hiện bằng ba đặc điểm chung cơ bản mà bất kỳ giai đoạn tố tụng hình sự nào cũng bắt buộc phải có:

- Giai đoạn tố tụng hình sự phải tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự (như: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án).

- Chức năng nhất định đó là đặc trưng chỉ của từng loại chủ thể (cơ quan hoặc người) tiến hành tố tụng (chứ không phải là của tất cả) có thẩm quyền thực hiện. Ví dụ: Điều tra là một giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng chức năng nhất định là điều tra vụ án hình sự mà chức năng đó là đặc trưng chỉ của hai loại chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện - Cơ quan điều tra (trong đại đã số những trường hợp) và Viện kiểm sát (trong một số ít trường hợp), chứ không thể là Tòa án.

- Giai đoạn tố tụng hình sự phải có nội dung là thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

- Hiện nay trong khoa học Luật tố tụng hình sự vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về các giai đoạn tố tụng hình sự. Trong bài này chúng tôi chưa đề cập đến việc phân tích từng quan điểm đó mà trên cơ sở Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003 mà chỉ đề cập đến việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung chủ yếu và cơ bản nhất về: 1) Khái niệm, 2) Bản chất pháp lý và 3) Vai trò (ý nghĩa) của năm giai đoạn tố tụng hình sự theo thứ tự sau. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; Giai đoạn điều tra; Giai đoạn truy tố; Giai đoạn xét xử và giai đoạn thi hành án.

Riêng việc thi hành bản án (quyết định) của Tòa án, mặc dù trong giai đoạn hiện nay nhà làm luật Việt Nam vẫn coi là một giai đoạn tố tụng hình sự và chính thức ghi nhận nó trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, nhưng theo quan điểm của chúng tôi đó không thể và không phải là một giai đoạn tố tụng hình sự, mà là một chuyên ngành luật độc lập (Luật thi hành án hình sự) với các quan hệ pháp luật, đối tượng điều chỉnh khác với Luật tố tụng hình sự và do vậy, nó là một đối tượng nghiên cứu khoa học riêng biệt và cần phải được nghiên cứu bằng nhiều công trình chuyên khảo khác nhau nên trong bài viết vấn đề này của chúng tôi tạm chưa đề cập đến.

2. Các giai đoạn tố tụng

2.1 Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự

+ Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự:

Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.

+ Bản chất pháp lý giai đoạn khởi tố vụ án hình sự:

Xuất phát từ khái niệm khoa học đã được đưa ra trên đây của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, chúng ta có thể nhận thấy, bản chất pháp lý của giai đoạn này là ở chỗ: Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật chất) và về pháp luật về hình thức (tố tụng) của việc điều tra vụ án hình sự; thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan đến hành vi đó.

+ Vai trò và ý nghĩa giai đoạn khởi tố vụ án hình sự:

- Một mặt, khởi tố vụ án hình sự là sự phản ứng nhanh chóng từ phía Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra và xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và người phạm tội, đồng thời không chỉ là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự mà còn là phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm;

- Mặt khác, khởi tố vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố vụ án hình sự một cách thiếu cân nhắc kỹ, vội vàng và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo trong việc truy cứu tố tụng hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo sau (như: Điều tra không có căn cứ đối với những hành vi không chứa đựng dấu hiệu của tội phạm hoặc nói chung những là không diễn ra trong thực tế khách quan, khám xét, bắt, giam giữ, buộc tội, xét xử một cách vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội);

- Và cuối cùng, khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trước khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.

2.2 Giai đoạn điều tra

+ Khái niệm về giai đoạn điều tra

Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là; Chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.

+ Bản chất pháp lý của giai đoạn điều tra

Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.

+ Vai trò và ý nghĩa của giai đoạn điều tra

- Một mặt, điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm;

- Mặt khác, điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự (như: Truy tố của Viện kiểm sát hoặc xét xử của Tòa án không khách quan, vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội);

- Và cuối cùng, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.

2.3 Giai đoạn truy tố

+ Khái niệm về giai đoạn truy tố

Quyết định việc truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách qua các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự.

+ Bản chất pháp lý của giải đoạn truy tố

Với tính chất là một giai đoạn độc lập của hoạt động tố tụng hình sự, giai đoạn truy tố về hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của Viện kiểm sát được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và kết thúc bằng việc Viện kiểm sát ra một trong ba loại quyết định sau: 1) Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng), 2) Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là 3) Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.

+ Vai trò và ý nghĩa của giải đoạn truy tố:

- Một mặt, truy tố là chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng; để loại trừ những hậu quả tiêu cực của các sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong hai giai đoạn tố tụng hình sự trước đó;

- Mặt khác, quyết định truy tố của Viện kiểm sát thông qua bản cáo trạng thể hiện hoạt động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là kết luận điều tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của Tòa án, loại trừ những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do việc xét xử thiếu công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan những người vô tội;

- Và cuối cùng, chính vì vậy, truy tố là một giai đoạn tố tụng hình sự quan trọng để cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi xét xử tại Tòa án.

2.4 Giai đoạn xét xử

+ Khái niệm về giai đoạn xét xử

Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.

Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo bản cáo trạng) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

+ Bản chất pháp lý của giai đoạn xét xử

Với tính chất là một giai đoạn độc lập của hoạt động tố tụng hình sự, giai đoạn xét xử có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định để: 1) áp dụng các biện pháp tố tụng cần thiết để chuẩn bị cho việc xét xử vụ án tại phiên tòa, 2) Xét xử theo thủ tục sơ thẩm (hoặc xét xử theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật - nếu bị kháng nghị) và cuối cùng, 3) tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

+ Vai trò và ý nghĩa của giai đoạn xét xử

- Xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án nói riêng và của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự nói chung nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tòa án, nhằm loại trừ các những hậu quả tiêu cực của các sơ xuất, sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong ba giai đoạn tố tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án;

- Bằng việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (nếu bản án hay quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị) thông qua quá trình điều tra trực tiếp tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của các bên, Tòa án với tính chất là cơ quan trọng tài kiểm tra lại và đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự để giải quyết về bản chất nó - phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo hoặc bằng việc kiểm tra tính hợp pháp và của bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (nếu bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị), nhằm đạt mục đích trong toàn bộ các giai đoạn tố tụng hình sự là tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội.

Xét xử là một giai đoạn tố tụng hình sự trung tâm và quan trọng để cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn xét xử của Tòa án nói riêng và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.

<iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/qTOpHQRjXzc" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>

21.99

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống,Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ đốt nhà 10 người ở TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

Luật sư Bảo vệ Quyền lợi cho Bị hại - Đoàn luật sư TPHCM

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư Bảo vệ Quyền lợi cho Bị hại - Đoàn luật sư TPHCM

Trong hoạt động tố tụng, luật sư không chỉ đóng vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo mà còn có thể tham gia tố tụng trong vai trò bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho phía bị hại người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Công ty Luật Minh Gia với đội ngũ luật sư chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự sẽ tư vấn cho bạn cách giải quyết các vấn đề về tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, người liên quan.

Công ty Luật Minh Gia tiếp nhận yêu cầu và cử luật sư tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, người liên quan trong vụ án hình sự. Nội dung dịch vụ luật sư bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, người liên quan được tiến hành như sau:

1. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại, người liên quan thông qua các hình thức:

- Luật sư tư vấn: Tư vấn các vấn đề pháp lý về quyền lợi của người bị hại, người liên quan - Quý khách hàng có thể liên hệ với Tổng đài Luật sư tư vấn trực tuyến hoặc gửi yêu cầu tư vấn qua Email hoặc qua trực tiếp văn phòng của chúng tôi để được Luật sư tư vấn về các vấn đề liên quan đến quyền lợi của mình trong vụ án hình sự như: định giá tài sản chiếm đoạt, cách tính bồi thường thiệt hại khi thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,…

- Luật sư tố tụng: tham gia tố tụng tại các cơ quan tiến hành tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, người liên quan - Luật sư của Luật Minh Gia sẽ tham gia phiên tòa hình sự, đưa ra các căn cứ pháp lý giúp bị hại, người có quyền lợi liên quan đảm bảo được quyền lợi của mình, nhất là về vấn đề tài sản, danh dự, bồi thường thiệt hại…

"Liên hệ 0972238006 để mời luật sư tranh tụng bảo về quyền lợi"

2. Những công việc luật sư thực hiện khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho bị hại, người liên quan

- Luật Minh Gia sẽ cung cấp các văn bản pháp luật liên quan đến vụ việc cho khách hàng, đồng thời tư vấn các quy định của pháp luật để giúp khách hàng hiểu được quyền lợi của mình ra sao? Bên cạnh đó, Luật sư sẽ phân tích quy định để khách hàng có thể xác định rõ cách tính quyền lợi của mình như thế nào là hợp lý và phù hợp với quy định của pháp luật.

- Đội ngũ luật sư của Luật Minh Gia sẽ trực tiếp tham gia bảo vệ quyền lợi của người bị hại ngay từ giai đoạn khởi tố đến khi điều tra, xét xử.

- Hướng dẫn người bị hại viết đơn trình bày, cung cấp các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can, bị cáo.

- Trực tiếp tham gia vào các buổi làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử để yêu cầu phiên tòa xét xử đúng người, đúng tội và yêu cầu mức bồi thường thiệt hại đúng mức dành cho người bị hại.

- Trong giai đoạn tiếp cận hồ sơ vụ án và tham gia từ giai đoạn khởi tố, điều tra luật sư thực hiện nhiệm vụ theo quy định pháp luật, cụ thể

+ Luật sư tư vấn các quy định pháp luật hình sự và các văn bản pháp luật liên quan, hướng dẫn cách khai, cách trình bày nhằm làm rõ hành vi phạm tội của bị can, bị cáo bảo vệ quyền lợi cho người bị hại;

+ Hướng dẫn viết bản tường trình, đơn từ, cung cấp chứng cứ cho cơ quan có thẩm quyền;

+ Phân tích, hướng dẫn theo quy định để khách hàng xác định và yêu cầu đòi bồi thường hợp lý khi tiến hành thỏa thuận giữa các bên.

Mời luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi cho bị hại, 

3.  Quy trình thực hiện của luật sư tham gia tố tụng

Quy trình thực hiện dịch vụ của Luật Minh Gia gồm 06 bước sau:

Bước 1: Tiếp nhận thông tin và hồ sơ vụ việc (Tường trình vi phạm, quyết định khởi tố bị can, vụ án, giấy tờ liên quan…) từ người bị hại, người liên quan.

Bước 2: Tư vấn các vấn đề pháp lý liên quan đến nội dung vụ án: Trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; quyền lợi của người bị hại, người liên quan…và xác định về điều kiện, thẩm quyền giải quyết, thời gian thực hiện và phân công luật sư tham gia tố tụng.

Bước 3: Hướng dẫn và cùng khách hàng thu thập thêm chứng cứ, tài liệu và các chứng cứ chứng minh khác theo quy định pháp luật để người bị hại, người liên quan trình báo vi phạm đến cơ quan có thẩm quyền và phục vụ công tác tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, người liên quan của luật sư.

Bước 4: Cùng thảo luận với khách hàng để lựa chọn phương án phù hợp và có lợi nhất cho khách hàng - Căn cứ vào những chứng cứ thu thấp được, Luật sư của Luật Minh Gia sẽ phân thích các phương án có thể xảy ra, trao đổi trực tiếp với khách hàng, căn cứ theo mục đích của khách hàng để lựa chọn ra phương án tối ưu nhất.

Bước 5: Hoàn thiện hồ sơ tham gia tố tụng gửi các cơ quan tiến hành tố tụng và triển khai nghiên cứu hồ sơ vụ án. Luật sư được phân công vụ việc phối hợp cùng các luật sư đồng nghiệp cùng bàn bạc, thảo luận để đưa ra hướng giải quyết tốt nhất, đảm bảo quyền lợi cho thân chủ của mình trong vụ án hình sự.

Bước 6: Luật sư tham gia tố tụng tại cơ quan tiến hành tố tụng theo nhiệm vụ đã phân công nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, người liên quan trong vụ án hình sự.

4. Chi phí tư vấn luật Hình sự và dịch vụ luật sư tranh tụng về Hình sự

- Chi phí tư vấn qua Email: tối thiểu 300.000đ/email tư vấn, phụ thuộc vào tính chất yêu cầu của khách hàng (Phù hợp với khách hàng có nhiều tài liệu, chứng cứ, muốn soạn thảo đơn, tường trình,… và không có điều kiện đến văn phòng).

- Chi phí tư vấn tại văn phòng: 400.000đ/giờ hành chính và 500.000đ/giờ ngoài hành chính (Phù hợp với khách hàng có thời gian, điều kiện đến trực tiếp văn phòng).

- Chi phí luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại Tòa án: tùy theo tính chất vụ việc, vị trí địa lý phòng dịch vụ của chúng tôi sẽ báo giá cụ thể về chi phí tố tụng.

<iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/BMKgIelthp4" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>

 

12.20203

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống,Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ đốt nhà 10 người ở TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.…là hãng luật tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và nước ngoài trên cả nước luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

Luật sư tư vấn pháp luật và bào chữa hình sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Quyền được thuê Luật sư bào chữa cho mình trong các vụ án đã được quy định cụ thể Bộ luật tố tụng năm 2003 và hiến pháp 2013, cụ thể như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tạo tố, điều tra, truy tố, xử lý có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc người khác bào chữa ”.

Vì sao nên thuê luật sư?

Đây là câu hỏi mà nhiều khách hàng, sự việc, bị can, bị cáo buộc khi nghĩ đến việc thuê luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án. Đa số đều giống nhau về việc suy nghĩ khi đặt vấn đề thuê luật sư, các câu hỏi thường gặp là:

- Chi phí thuê luật sư như thế nào? Luật sư có kém không?

- Liệu thuê luật sư có đáng tiền không và có nên tin tưởng luật sư hay không?

- Luật sư sẽ làm những gì để giúp mình?

- Kết quả đạt được khi thuê luật sư như thế nào?

- sợ hãi luật sư và các cơ quan tố tụng mắc ngoặc nhau?

Và rất nhiều câu hỏi cần lời giải đáp xứng đáng từ phía khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ Luật sư. The ten that of client, is the can, be the, as a report on is complete with the base and precision. The but, the think as on đều xuất phát từ công việc chưa hiểu, đánh giá đầy đủ, thỏa mãn và hiểu được vai trò của Luật sư trong các công việc. Thực hiện, vai trò Luật sư hiện nay rất quan trọng trong Tố tụng hình sự, bào chữa cho các thiết bị có thể / bị cáo, cụ thể như sau:

- All all can / being the report, the service in the top of service, not am hiểu hết về hành vi phạm tội, tính chất mức độ, sự giải quyết của hệ thống xử lý chất lượng. Không thể tự trình bày các điểm luận hay tranh luận với các tố tụng cơ quan.

- Luật sư giúp đỡ có thể / bị cáo, người nhà có thể / bị cáo hiểu, nắm bắt được các quy định của pháp luật liên quan đến danh sách truy cứu trách nhiệm hình sự, tố tụng quy tắc, thời gian, quá giải quyết. Giúp khách hàng của mình hiểu một cách tổng hợp nhất về việc giải quyết vụ án. Tối đa việc làm tốn kém chi phí không cần thiết, an tâm, suy nghĩ sáng suốt khi giải quyết công việc cho các thiết bị có thể / bị cáo và người trong nhà.

- Trấn an tinh thần, giúp được / bị cáo, người nhà có thể / bị cáo yên tâm, bình tĩnh suy xét, đánh giá chất lượng, mức độ, hậu quả của các nhà điều hành vi phạm pháp luật mà cơ quan hệ xử lý tố tố.

- Giúp đỡ khách hàng, được / được đưa ra các định hướng, phương pháp phục hồi kết quả, thu thập các tài liệu, chứng cứ minh oan, giảm nhẹ hình phạt hoặc tìm ra sự thật của khách hàng.

- Gỡ bỏ, kiến ​​nghị, đấu tranh với các thuật ngữ cơ bản để làm sáng sự thật của khách hàng, các tình tiết, hồ sơ, hành vi, diễn biến phạm vi. To the process of the profix has how to get, đánh giá khách hàng, toàn diện, nội dung chính xác định, tránh oan trạng thái, sai, xử lý quá nặng cho các thiết bị có thể / bị báo cáo.

- Trong trường có thể / bị cáo bị tạm giam, Luật sư sẽ gặp trực tiếp có thể / bị cáo trong trại tạm giam hoặc phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng hỏi cung để làm sáng tỏ sự thật của khách hàng. một.

- Trực tiếp bào chữa cho bị cáo có thể / bị cáo tại phiên tòa thẩm định, phúc thẩm. Luật sư đưa ra luận cứ, luận điểm, đấu tranh với Hội đồng xử lý, Viện kiểm sát.

Đối với dịch vụ hình sự, Luật sư càng sớm sẽ có tác dụng trong chứng minh khách hàng khi hồ sơ chưa thực sự đóng, cơ quan điều tra chứng minh, làm sáng tình tiết, hành vi, dung service. Tối đa giới hạn công việc oan, sai hoặc áp dụng hình quá nặng trong việc giải quyết các công việc. Điều quan trọng giúp cho thiết bị có thể / được báo cáo và người nhà tránh tối đa việc lãng phí chi phí không cần thiết và đạt được hiệu quả tối đa khi giải quyết công việc.

2.Những ai có quyền bào chữa trong các vấn đề?

- Theo Nội dung 1, Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa có thể là: Luật sư, Pháp nhân đại diện có thể, bị cáo, người bị tạm giữ và Bào chữa viên. Tuy nhiên, thực tế trong các sự việc, người có quyền bào chữa là Luật sư khi được / bị cáo hoặc người nhà được mời và được chấp thuận bởi các quy trình tố tụng.

- Để cụ thể hóa các quyền của Luật sư khi tham gia bào chữa, Khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng quy định của Luật sư như sau:

a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi người cung cấp có thể và nếu Điều tra viên đồng ý, thì được hỏi người bị tạm giữ, bị có thể và có mặt trong những điều tra hoạt động khác; see the version about the activity of the prefix with the tham gia của mình và các liên quan tố tụng quyết định đến những người mà mình sửa chữa;

b) Đề nghị Cơ quan báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;

c) Đề nghị thay đổi người quản lý tố tố, người giám sát, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật;

d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thích của người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người được tạm giữ, bị có thể, bị báo cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công việc;

đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Người được tạm giữ; bị can, bị cáo bị giam giữ;

g) Đọc, ghi chép và sao chụp các tài liệu trong hồ sơ liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;

h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

i) Khiếu nại quyết định, cơ quan điều hành vi tố, người có thẩm quyền xử lý tố tố;

k) Kháng bản án, quyết định bản án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc có thể chất lượng quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 57 của BLTT Hình sự.

3. 

 <iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/6z3ofTFj_Iw" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>

10

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, hiểu biết, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến ​​thức rộng, kỹ năng chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công việc cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nhân viên phạm tội, và những người bị oan. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai, luật sư luôn đe dọa vì sự thù địch của bên đối lập. Do vậy để làm luật sư thì phải có tâm, có đạo, có tài và phải có tâm với nghề, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình, thì rất khó khăn khi hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan cho thân chủ, được giúp đỡ cho thân chủ, trả lại công bằng, công việc quản lý cho thân chủ nhằm góp phần trả lại công bằng cho xã hội.

     Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn luật trên các kênh truyền hình uy tín như: Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài Truyền hình  Việt Nam (VTV),  Đài Truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, Truyền hình Quốc Hội Việt Nam , Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang,  Truyền hình Quốc Hội,  Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Thanh niên, Tiền Phong Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và báo chí trên cả nước ... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa soạn cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh cao, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa ra, người dân tâm như vụ đ ại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank , Vụ cướp 35 Tỷ Long Thành - Dầu giây, Vụ án nhà 10 người tại TPHCM, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các dịch vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái .. . và các dịch vụ khác về dân sự, kinh tế, hợp đồng kinh tế thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp .… là hãng tư vấn luật cho nhiều công ty Việt Nam và bên ngoài nước  luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như đóng góp tích cực công bằng, đi tìm công ty không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn.

 

 

Quy định về mời Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Quy định về mời Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự

23/10/2020 05:45

(LSVN) - Quyền bào chữa là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam. Việc thực hiện tốt các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng xác định được sự thật khách quan của vụ án, giúp hoạt động tố tụng được tiến hành đúng trình tự, đảm bảo việc xét xử công minh, kịp thời, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.

Signing testament

Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Theo quy định của pháp luật, Luật sư là một trong số những người được bào chữa.

Cụ thể, khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có thể là:

- Luật sư;

- Người đại diện của người bị buộc tội;

- Bào chữa viên nhân dân;

- Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.

Những người sau đây không được bào chữa:
- Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó;
- Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.

Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau.

Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.

Người bào chữa vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của luật.

Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, bị tạm giữ phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa.

Trong thời hạn 24 giờ kể khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị tạm giam không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa.

Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để có ý kiến về việc nhờ người bào chữa.

Người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận từ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương trở lên cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.

Khi đăng ký bào chữa, Luật sư xuất trình Thẻ Luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu Luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội.

THANH THANH

https://lsvn.vn/hanh-vi-chiem-doat-tien-cuu-tro-cua-gia-dinh-nan-nhan-rao-trang-3-se-bi-phap-luat-xu-ly-the-nao.html
 
 
 

Về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Về tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”

 

“Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Thực tiễn xét xử các Toà án cũng thường áp dụng tình tiết giảm nhẹ này đối với bị cáo khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào Toà án cũng áp dụng đúng với nội dung của tình tiết giảm nhẹ này, mà không ít trường hợp do nhận thức hoặc do đánh giá không thống nhất nên khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này không đúng pháp luật, không có tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Về tình tiết giảm nhẹ này, không phải là tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 mà đã được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Cho đến nay chưa có giải thích hoặc hướng dẫn chính thức nào về tình tiết giảm nhẹ này. Tại Hội nghị tổng kết công tác chống tham nhũng và buôn lậu năm 1992, Toà án nhân dân tối cao đã lưu ý: “Khi vận dụng tình tiết phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng cần phải nắm vững cả hai vế: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sai lầm của một số Thẩm phán thường là chỉ quan tâm đến vế thứ nhất là phạm tội lần đầu mà không chú ý vế thứ hai là và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Tuy nhiên, tại Hội nghị này cũng chưa hướng dẫn một cách đầy đủ về nội dung tình tiết giảm nhẹ này, cũng như áp dụng như thế nào cho đúng với quy định của Điều 38 Bộ luật hình sự năm 1985. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực pháp luật, tuy chưa có hướng dẫn chính thức nhưng cũng đã có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành trao đổi về tình tiết giảm nhẹ này nhưng chủ yếu dừng lại ở từng vụ án cụ thể, chưa có tính khái quát, tổng hợp để có thể áp dụng đối với tất cả các trường hợp phạm tội. Để giúp cho Thẩm phán Toà án các cấp hiểu và sử dụng tình tiết giảm nhẹ này, chúng tội có một số ý kiến và rất mong bạn đọc trong và ngoài ngành cùng trao đổi.

Theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” bao gồm hai nội dung (hai vế) rất rõ đó là: “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Nếu tách hai nội dung này ra thì giữa “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” không liên quan gì với nhau, nhưng nhà làm luật quy định: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là một tình tiết giảm nhẹ với việc dùng liên từ “và” để gắn hai nội dung (hai vế) với nhau thì cả hai nội dung (hai vế) là điều kiện cần và đủ để xác định có được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không. Cũng chính vì vậy mà tại Hội nghị tổng kết công tác chống tham nhũng và buôn lậu năm 1992, Toà án nhân dân tối cao đã lưu ý: “Khi vận dụng tình tiết phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng cần phải nắm vững cả hai vế: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tuy nhiên khi xác định nội dung tình tiết giảm nhẹ này thì chúng ta phải xác định từng vế, trên cơ sở đó mới có thể xác định người phạm tội có thuộc trường hợp quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự hay không.

1. Phạm tội lần đầu

Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, việc xác định thế nào là phạm tội lần đầu cũng có nhiều ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng, phạm tội lần đầu là lần đầu bị đưa ra xét xử, vì chỉ có Toà án mới có thẩm quyền quyết định hình phạt, một người chỉ bị Toà án đưa ra xét xử thì mới có việc quyết định hình phạt và chỉ khi quyết định hình phạt thì Toà án mới căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ (Điều 45 Bộ luật hình sự). Nếu người phạm tội đã có nhiều lần phạm tội nhưng chưa có lần nào bị Toà án kết án thì vẫn được coi là phạm tội lần đầu. Ví dụ: Năm 2008, Huỳnh Tấn H đã hai lần bị Công an phường xử phạt hành chính với hình thức  cảnh cáo về hành vi trộm cắp; ngày 15-3-2009 Huỳng Tấn H lại trộm cắp Toà án trị giá 2.000.000 đồng và bị truy tố theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự; khi quyết định hình phạt đối với Huỳnh Tấn H, Toà án nhân dân huyện K xác định Huỳnh Tấn H “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

Ý kiến thứ hai cho rằng, phạm tội lần đầu cũng là trường hợp lần đầu bị đưa ra xét xử hoặc tuy đã bị đưa ra xét xử nhiều lần, nhưng trước khi bị đưa ra xét xử lần này, nếu hành vi phạm tội trước đó đã được xoá án tích hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì vẫn được coi là phạm tội lần đầu. Ví dụ: Năm 2002, Nguyễn Văn M bị Toà án nhân dân huyện Q kết án 6 tù nhưng cho hưởng án treo về tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự, đã được xoá án; ngày 25-12-2008 Nguyễn Văn M lại bị bắt về tội đánh bạc và bị truy tố theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự. Khi xét xử và quyết định hình phạt đối với Nguyễn Văn M, Toà án nhân dân huyện Q xác định Nguyễn Văn M “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

Ý kiến thứ ba cho rằng, phạm tội lần đầu là trường hợp một người thực hiện một hoặc một số hành vi phạm tội nhưng chưa bị xử lý hoặc bị xét xử lần nào lần đưa ra xét xử này là lần đầu tiên. Ví dụ: Ngày 24-1-2009, Lưu Thị T bị bắt quả tang đang vận chuyển 30 kg pháo nổ; trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra còn phát hiện trước đó, ngày 20- 12-2008 Lưu Thị L còn mua bán 40 kg pháo nổ. Với hành vi phạm tội như trên, Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố Lưu Thị L về tội “vận chuyển, buôn bán hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự. Khi xét xử và quyết định hình phạt Toà án nhân dân quận H đã xác định Lưu Thị L “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

Ý kiến thứ tư cho rằng, phạm tội lần đầu là từ trước tới nay chưa phạm tội lần nào. Nếu các lần phạm tội trước đó đã bị xử lý hành chính, đã bị kết án chưa được xoá án hoặc đã được xoá án, hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì lần phạm tội mới này vẫn không được coi là phạm tội lần đầu. Theo quan điểm này thì ba ví dụ nêu trên đều không được coi là “phạm tội lần đầu”, chỉ coi là “phạm tội lần đầu” khi bị xét xử người phạm tội chưa một lần nào có hành vi phạm tội và lần phạm tội này cũng chỉ bị truy trách nhiệm hình sự về một tội và tội đó thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Nếu người phạm tội tuy trước đó chưa phạm tội lần nào nhưng lần bị đưc ra xét xử lần này lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự về nhiều tội khác nhau thì cũng không được coi là “phạm tội lần đầu”. Ví dụ:  Đặng Văn Q bị truy tố về tội “cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 104 và tội “dâm ô đối với trẻ em” theo khoản 1 Điều 116 Bộ luật hình sự. Trước khi bị truy tố về hai tội này, Đặng Văn Q chưa phạm tội lần nào. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này và phân tích thêm một số vấn đề sau:

Điều luật quy định “phạm tội lần đầu” chứ không quy định “bị kết án lần đầu” hay “bị xét xử lần đầu”. Phạm tội là hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà Luật hình sự bảo vệ, không phụ thuộc vào việc người có hành vi đó bị xử lý như thế nào. Một người có hành vi phạm tội có thể bị Toà án kết án, có thể bị xử phạt hành chính, có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng họ vẫn bị coi là đã phạm tội nên lần phạm tội bị Toà án đang xét xử thì không thể coi là “phạm tội lần đầu” được. Phạm tội lần đầu là một khái niệm độc lập không liên quan đến các chế định khác có liên quan đến phạm tội nhiều lần như: tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; tiền án hoặc tiền sự. Một người có thể phạm tội nhiều lần nhưng có thể không bị xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, hoặc không bị xác định là tiền án hoặc tiền sự, nhưng vẫn bị coi là đã phạm tội. Điều 63 Bộ luật hình sự quy định: “Người được xoá án tích coi như chưa bị kết án” chứ không quy định “coi như chưa phạm tội”. Ý nghĩa của tình tiết giảm nhẹ này là chiếu cố những người chưa bao giờ thực hiện hành vi phạm tội, nay vì một lý do hoặc hoàn cảnh nào đó mà họ phạm tội lần đầu.

Tuy nhiên nếu chỉ phạm tội lần đầu mà thuộc trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ, mà chỉ thuộc trường hợp ít nghiêm trọng thì mới được coi là tình tiết giảm nhẹ. Do đó, Bộ luật hình sự quy định “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

2. Thuộc trường hợp ít nghiêm trọng

Thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là trường hợp tội phạm mà người phạm tội thực hiện gây nguy hại không lớn cho xã hội. Ví dụ: Trộm cắp tài sản có giá trị từ 500.000 đồng đến dưới 50 triệu đồng nhưng không gây ra hậu quả nghiêm trọng.

Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trước hết thuộc trường hợp  tội phạm mà người phạm tội thực hiện là tội ít nghiêm trọng quy định ở khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Ví dụ: Tội giết con mới đẻ (Điều 94); tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 95; tội xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; tội ở lại nước ngoài hoặc ở Việt Nam trái phép (Điều 274)…

Do cấu tạo của Bộ luật hình sự nên có tội phạm điều luật chỉ quy định một khung hình phạt. Ví dụ: Tội giết con mới đẻ quy định tại Điều 94 Bộ luật hình sự chỉ có một khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Nhưng đa số tội phạm điều luật quy định nhiều khung hình phạt mỗi khung hình phạt tương ứng với một khoản của điều luật. Ví dụ: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự có tới 4 khung hình phạt tương ứng với 4 khoản (trừ khoản 5 quy định hình phạt bổ sung). Trong đó, khoản 1 có khung hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm; khoản 2 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù; khoản 3 có khung hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm tù và khoản 4 có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm tù hoặc tù chung thân. Có thể nói tội có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác là tội phạm được cấu tạo bao gồm đầy đủ cả bốn loại tội: Khoản 1 là tội phạm ít nghiêm trọng, khoản 2 là tội phạm nghiêm trọng, khoản 3 là tội phạm rất nghiêm trọng, khoản 4 là tội phạm đắc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên không phải tội phạm nào cũng được cấu tạo như tội có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác mà tuỳ thuộc vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà nhà làm luật quy định là loại tội phạm nào. Có tội phạm luôn luôn là tội ít nghiêm trọng. Ví dụ: tội có ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 106 Bộ luật hình sự, cả khoản 1 và khoản 2 đều là tội phạm ít nghiêm trọng; có tội phạm luôn luôn là tội đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ: Tội phá hoại hoà bình, gây chiến tranh xâm lược quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự, tội chống loài người quy định tại Điều 342 Bộ luật hình sự, tội phạm chiến tranh quy định tại Điều 343 Bộ luật hình sự; có tội phạm vừa tội ít nghiêm trọng vừa là tội nghiêm trọng hoặc vừa là tội nghiêm trọng vừa là tội rất nghiêm trọng hoặc vừa là tội rất nghiêm trọng vừa là tội đặc biệt nghiêm trọng… Vì vậy, khi cần xác định tội phạm nào là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng phải căn cứ vào khung hình phạt đối với tội ấy.

Trước hết, căn cứ để xác định tội phạm ít nghiêm trọng là hành vi phạm tội gây nguy hại cho xã hội không lớn. Đại lượng không lớn mà nhà làm luật quy định có thể được xác định ngay trong điều luật. Ví dụ: gây thương tích cho người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30 % ( khoản 1 Điều 104) hoặc trộm cắp tài sản từ 2.000.000 đến 50.000.000 đồng (khoản 1 Điều 138). Nhưng cũng có thể do các cơ quan tiến hành tố tụng xác định. Ví dụ: hành vi dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội (Điều 130) phải có sự đánh giá thế nào là hành vi nghiêm trọng khác hoặc nếu xác định hành vi phạm tội chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa phải là tội phạm nghiêm trọng mà vẫn là tội phạm ít nghiêm trọng. Ví dụ: Một người trộm cắp từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì vẫn thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là tội phạm ít nghiêm trọng, nhưng nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì thuộc trường hợp quy định tại điểm g khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự là tội phạm nghiêm trọng. Như vậy, nhà làm luật chỉ đưa ra tiêu chí để phân biệt tội phạm và trong nhiều trường hợp tiêu chí đó đã được quy định ngay trong điều khoản của Bộ luật hình sự, nhưng cũng không ít trường hợp việc xác định tội phạm ít nghiêm trọng lại do chính các cơ quan tiến hành tố tụng.

Bộ luật hình sự quy định tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà không quy định gây thiệt hại không lớn cho xã hội. Do đó, cần phải hiểu rằng nguy hại cho xã hội và thiệt hại cho xã hội không phải là một, có trường hợp chưa gây thiệt hại nhưng đã gây nguy hại lớn cho xã hội. Ví dụ: Hành vi hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân mặc dù chưa gây thiệt hại (chưa lật đổ được chính quyền nhân dân) vẫn bị coi là hành vi gây nguy hại rát lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội (Điều 78 Bộ luật hình sự). Ngược lại, có hành vi gây thiệt hại lớn cho xã hội nhưng lại chưa bị coi là gây nguy hại lớn cho xã hội. Ví dụ: Hành vi cản trở giao thông đường bộ gây thiệt nghiêm trọng đến sức khoẻ, tài sản nhưng chỉ bị coi là hành vi gây nguy hại không lớn cho xã hội, nên hành vi này cũng chỉ là hành vi phạm tội ít nghiêm trọng ( khoản 1 Điều 203 Bộ luật hình sự).

Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội là tiêu chí cơ bản đẻ xác định tội phạm ít nghiêm trọng nhưng nếu chỉ căn cứ vào tiêu chí này thì cũng chưa thể xác định tội phạm đó là tội phạm ít nghiêm trọng hay nghiêm trọng mà phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm ít nghiêm trọng là đến ba năm tù. Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là đến ba năm tù không có nghĩa là tội phạm đó có mức cao nhất của khung hình phạt nhất thiết là ba năm tù mà có thể dưới ba năm tù, thậm chí không có hình phạt tù. Ví dụ: Tội vi phạm chế đọ một vợ một chồng quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là một năm tù; tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là cải tạo không giam giữ đến một năm … Các tội phạm này mức cao nhất của khung hình phạt không phải là ba năm tù, thậm chí không phải là hình phạt tù.

Ngoài những tội ít nghiêm trọng, người phạm tội lần đầu đối với các tội nghiêm trọng, nhưng do có các tình tiết đặc biệt của vụ án làm cho trường hợp phạm tội cụ thể đó thành ít nghiêm trọng thì cũng thuộc tình tiết giảm nhẹ này. Tuy nhiên chỉ coi là trường hợp ít nghiêm trọng, nếu khung hình phạt đối với tội ấy có mức thấp nhất từ 3 năm tù trở xuống và khi quyết định hình phạt, Toà án cũng chỉ xử phạt bị cáo không quá 3 năm tù. Ví dụ: Khoản 1 Điều 97 về tội Làm chết người trong khi thi hành công vụ có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù là tội nghiêm trọng. Nhưng người phạm tội có  nhiều tình tiết giảm nhẹ, Toà án chỉ xử phạt bị cáo với hình phạt từ 3 năm tù trở xuống thì vẫn coi đây là trường hợp ít nghiêm trọng.

Thực tiễn áp dụng tình tiết giảm nhẹ này, có Toà án chỉ xác định  “bị cáo phạm tội lần đầu” mà không xác định xem bị cáo phạm tội có thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hay không nhưng vẫn áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; có Toà án cũng biết là bị cáo phạm tội không phải là lần đầu mà chỉ thuộc trường hợp lần đầu bị “đưa ra xét xử” nhưng cũng áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Ngược lại có Toà án cho rằng bị cáo có nhiều hành vi phạm tội cùng một tội, nhưng nếu tách riêng từng hành vi ra thì chưa cấu thành tội phạm và tội phạm đó là tội phạm ít nghiêm trọng nhưng Toà án lại cho rằng bị cáo phạm tội nhiều lần chứ không phải là phạm tội lần đầu. Ví dụ: Ngày 03-4-2008, Phạm Quốc T  trộm cắp tài sản trị giá 800.000 đồng, ngày 13-4-2008 T lại trộm cắp tài sản trị giá 1.200.000 đồng và ngày 31-5-2008 T lại trộm cắp tài sản có giá trị 300.000 đồng thì bị bắt và bị truy tố về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp này, nếu tách từng hành vi của Phạm Quốc T thì chưa có lần nào cấu thành tội trộm cắp, nhưng nếu tính cả 3 lần trộm cắp thì hành vi của Phạm Quốc T mới cầu thành tội trộm cắp tài sản và thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù và là tội phạm ít nghiêm trọng, nên hành vi của Phạm Quốc T được coi là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Về “Trường hợp ít nghiêm trọng”, thực tiễn xét xử hầu hết các Toà án chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm trọng tức là tội mà họ bị truy tố, xét xử có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù, rất ít trường hợp Toà án áp dụng đối với những tội nghiêm trọng, chưa có trường hợp nào Toà án áp dụng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.

Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử có ý kiến cho rằng, Bộ luật hình sự có quy định “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” ở một số điều luật cụ thể nên người phạm tội chỉ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ này nếu họ phạm tội lần đầu và tội phạm đó Bộ luật hình sự có quy định là “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Ví dụ: Huỳnh Thị C lần đầu phạm tội gián điệp thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 80 Bộ luật hình sự thì mới được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” vì khoản 2 Điều 80 Bộ luật hình sự quy định “phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm”.

Theo quan điểm trên, thì tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” chỉ được áp dụng đối với rất ít trường hợp, vì Bộ luật hình sự chỉ có một số tội phạm nhà làm luật quy định “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” như: tội giấn điệp (khoản 2 Điều 80); tội phá hoại cơ sở vật chất-kỹ thuật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 2 Điều 85); tội phá hoại chính sách đoàn kết (khoản 2 Điều 86); tội phá hoại chính sách đoàn kết (khoản 2 Điều 87) và tội chống phá trại giam (khoản 2 Điều 90). Ngoài các tội phạm trên, thì không còn tội phạm nào nhà làm luật quy định “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

Đúng là Bộ luật hình sự có một số điều luật nhà làm luật quy định “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” và cũng chỉ đối với một số tội xâm phạm an ninh quốc gia nhưng không vì thế mà cho rằng các tội phạm khác không có trường hợp ít nghiêm trọng. Mặt khác, các tội phạm quy định tại các Điều 80, 85, 86, 87 và 90 là các tội xâm phạm an ninh quốc gia đều là các tội đặc biệt nghiêm trọng, trường hợp ít nghiêm trọng đối với các tội phạm này mà nhà làm luật quy định cũng là tội phạm nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, không có trường hợp nào là tội phạm ít nghiêm trọng. Hơn nữa, tình tiết “phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại khoản 2 các Điều 80, 85, 86, 87 và 90 đã là tình tiết định khung hình phạt nên nó cũng không còn là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự nữa. Vì vậy, tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” chỉ áp dụng đối với các tội phạm mà nhà làm luật không quy định là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt.

Nguồn: Theo Thạc sỹ: Đinh Văn Quế

 

CCHC6

LS TRẦN MINH HÙNG

 

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006