Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư bào chữa tội làm tàng trữ vận chuyển và lưu hành tiền giả

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

1. Hành vi kinh doanh xăng dầu giả bị xử lý như thế nào?

Hành vi kinh doanh xăng dầu giả có thể bị xử lý về tội sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định tại Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể, người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100 triệu đồng đến 1 tỉ đồng hoặc bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm…

Bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm nếu hành vi có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; hàng giả trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng tính theo giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng trong trường hợp không xác định được giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn…

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp này thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm: Hàng giả có giá thành sản xuất 100 triệu đồng trở lên; hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 500 triệu đồng trở lên trong trường hợp không xác định được giá thành sản xuất, giá bán, giá niêm yết, giá ghi trong hóa đơn; thu lợi bất chính 500 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại về tài sản 1,5 tỉ đồng trở lên…

Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, bị phạt tiền từ 1 tỉ đồng đến 3 tỉ đồng; phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3 tỉ đồng đến 6 tỉ đồng; phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 6 tỉ đồng đến 9 tỉ đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 6 tháng đến 3 năm…

Còn theo Điều 20 Nghị định 80/2013/NĐ-CP đối với hành vi kinh doanh xăng dầu kém chất lượng: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 400.000 đồng đến 1 triệu đồng đối với hành vi bán hàng hóa nhưng không công bố tiêu chuẩn áp dụng theo quy định; phạt tiền từ 3 lần đến 5 lần tổng giá trị sản phẩm, hàng hóa vi phạm tại thời điểm vi phạm đối với một trong các hành vi sau đây: Bán sản phẩm, hàng hóa có chất lượng không phù hợp với quy định của quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; thay thế, đánh tráo, thêm, bớt thành phần hoặc chất phụ gia, pha trộn tạp chất làm giảm chất lượng sản phẩm, hàng hóa so với quy định của quy chuẩn kỹ thuật tương ứng…

"Không chỉ bị xử lý hành chính, hành vi gian lận kinh doanh xăng dầu trong nhiều trường hợp còn có thể bị xử lý hình sự theo Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 nếu đáp ứng đầy đủ các quy định của Luật hiện hành"

2. Tội làm, tang trữ vận chuyển và lưu hành tiền giả

1. Quy định pháp luật

Điều 207 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“Điều 207. Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả

1. Người nào làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

3. Phạm tội trong trường hợp tiền giả có trị giá tương ứng từ 50.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

4. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

2. Các yếu tố cấu thành tội phạm

• Chủ thể: người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định

• Lỗi: cố ý trực tiếp

• Hành vi khách quan:

– Làm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Người phạm tội có thể tham gia vào toàn bộ quá trình làm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả hoặc có thể chỉ là một công đoạn của quá trình đó.

– Tàng trữ tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Đây là hành vi cất giữ trái phép trong nhà, trong người hoặc ở một nơi nào đó (như cơ sở kinh doanh, vườn…) các loại tiền giả, công trái giả, ngân phiếu giả.

– Vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Đây là hành vi vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả. Đây là hành vi vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả từ địa điểm này đến địa điểm khác trái với quy định của pháp luật. Hành vi vận chuyển tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả có thể được thực hiện bằng bất kì hình thức nào như mang theo người, chuyển qua đường bưu điện, tầu hỏa, máy bay…

– Hành vi lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả là hành vi mua đi bán lại các đối tượng đó dưới bất kì hình thức nào như mua bán theo nghĩa thông thường, trao đổi, thanh toán bằng tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả…

3. Hình phạt

• Khung cơ bản: phạt tù từ ba năm đến bảy năm

• Khung tăng nặng thứ nhất: phạt tù từ năm năm đến mười hai năm trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng

• Khung tăng nặng thứ hai: phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng

• Hình phạt bổ sung: phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

ANTV

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn!.

Luật sư tranh tụng mức phạt khi sử dụng cần sa

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

1. Phân biệt cây gai dầu và cây cần sa?

Trong thời gian qua, để đạt đến mục tiêu ngăn chặn tình trạng người dân trồng cây có chứa chất ma túy là mối nguy hại cho toàn xã hội, Nhà nước đã có sự phối hợp với các cơ quan địa phương để đẩy mạnh quá trình công tác tuyên truyền, khuyến khích người dân phòng chống trồng cây có chất ma túy. Tuy nhiên, vì rất nhiều lý do liên quan đến sự nhận thức và vấn đề lợi nhuận khi trồng cây thì những người dân đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng có kinh tế khó khăn vẫn đang tiếp tục tình trạng này, một phần do không nhận biết được các loại cây nguy hại như thế nào, một phần không phân biệt được các loại cây nào có chất ma túy hay không? Vì ngoài các tính chất là có chất ma túy thì các loại cây này còn có nhiều chức năng khác dẫn tới việc nhầm lẫn đặc biệt là cây gai dầu và cây cần sa. Theo đó, đã có rất nhiều nghiên cứu khoa học để phân biệt các loại cây này dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau

Cây cần sa với tên khoa học là Marijuanna và cây gai dầu tên khoa học là Hemp đều thuộc vào dòng cây canabis là dòng cây chứa chất kích thích, giữa hai loại cây này cùng thuộc môt dòng họ nên có rất nhiều điểm tương đồng nên rất khó phân biệt. Chỉ có thể phân biệt hai loại cây này dưới các tiêu chí như sau:

Thứ nhất, nguồn gốc và hàm lượng tinh dầu trong cây cần sa và cây gai dầu.

Cây gai dầu xuất hiện và được người dân trồng trọt từ 8000 năm trước, với mục đích ban đầu chủ yếu là để làm thức ăn, quần áo, nguyên vật liệu xây dựng. Cây cần sa vốn dĩ là loại cây được lai tạo với mục đích làm tăng hàm lượng tinh dầu, chủ yếu để làm mục đích chữa trị vết thương và nấu ăn, giải trí.

Đối với tiêu chí hàm lượng tinh dầu THC trong họ cây Cannabis bao gồm cả cây gai dầu và cây cần sa chủ yếu gây cho con người cảm giác ảo giác, kích thích hệ thần kinh trung ương, phân khu trung tâm, và các nơron thần kinh có liên quan làm cho người sử dụng có cảm giác sảng khoái tạm thời và hưng phấn trong một thời gian nhất định . Sau khi sử dụng các loại chất có trong các cây này, nhưng nếu sử dụng trong một thời gian dài thì nó cũng sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe nhất là ảnh hưởng đến hệ thần kinh làm cho con người không được tỉnh táo, suy giảm trí nhớ.

Hàm lượng tiêu chí tinh dầu là một trong những tiêu chí cơ bản để phân biệt cây gai dầu và cây cần sa vì hai loại cây này rất khó phân biệt từ hình dáng đến cách trồng trọt.Đối với cây gai dầu có hàm lượng tinh dầu THC rất thấp chỉ dưới 0,3% và cần sa có hàm lượng tinh dầu THC cao hơn cây dầu gai từ 0,3% trở lên. Theo đó đối với các dòng cây canabis có hàm lượng tinh dầu dưới 0,3% thì được xếp vào loại cây gai dầu và những cây có hàm lượng tinh dầu cao hơn 0,3% thì được xếp vào loại cây cần sa..

Thứ hai, về môi trường nuôi trồng cây gai dầu và cây cần sa.

Vì cây gai dầu và cây cần sa có cấu tạo, hàm lượng tinh dầu khác nhau và mục đích sử dụng của hai loại cây khác nhau nên cách thức trồng cây cũng khác nhau cụ thể như sau: Đối với cây gai dầu, thường phổ biến ở dưới dạng không có hoa trong suốt cả thời gian sinh trưởng và thu hoạch, và thường là những cây đực, kích thước cây thường lớn hơn cây cần sa, sinh trưởng nhanh hơn cây cần sa. Môi trường canh tác của cây gai dầu thông thường phải được canh tác ở ngoài trời, không gian thoáng mát, có đầy đủ ánh sáng và nhiệt độ để cây phát triển

Đối với cây cần sa thì môi trường sinh trưởng của loại cây này thường kén hơn so với cây gai dầu,môi trường sống cần có nhiều điều kiện để phát triển hơn. Vì có hàm lượng tinh dầu cao nên cây cần sa phải được trồng trong các môi trường được cung cấp đầy đủ các yếu tố như ánh sáng, nhiệt độ, không khí. Những yếu tố này ảnh hưởng rất lớn sản lượng và chất lượng của cây cần sa. Loại cây cần sa này là cây có chứa chất ma tuý được quy định tại số thứ tự 45, ID thuộc Danh mục I là các chất ma tuý tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền . Những danh mục này được Ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP nghị định ban hành ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất. Như vậy hàm lượng chất ma túy của cây cần sa được xác định rõ ràng và cao hơn cây gai dầu

Thứ hai, về tình trạng viêc trồng cây gai dầu ở Việt Nam

Hiện nay trên thế giới có nhiều đất nước và vùng lãnh thổ đã cho hợp pháp việc trồng cây gai dầu, việc trồng cây gai dầu được phục vụ cho nhiều mục đích trong đời sống, trong công nghiệp, trong lĩnh vực y tế và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên trong pháp luật Việt Nam thì căn cứ vào quy định tại điều 247 Bộ luật hình sự 2015 có sửa đổi bổ sung năm 2017, quy định về tội trồng cây thuốc phiện, cây cô ca và cây cần sa. Mặc dù cây gai dầu không thuộc vào các loại cây bị “chỉ điểm” cấm trong điều luật tại Bộ luật hình sự nhưng theo quy định của pháp luật hiện hành có quy định thêm về các loại cây khác chứa chất ma túy để mở rộng phạm vi cấm các loại cây chứa các chất ma túy đang được tự do trồng trọt ở thực tế. Mặt khác, theo quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự thì chưa có văn bản nào hướng dẫn các loại cây khác chứa chất ma túy phải đáp ứng những điều kiện gì? Hiện tại theo Thông tư 17/2007 là Thông tư liên tịch của Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp quy định về các loại cây khác có chứa chất ma túy là bao gồm những loại cây giám định ra có chất gây nghiện và chất hướng thần.Như vậy mặc dù cây gai dầu không được nhắc tên quy định tại điều luật nhưng nếu cây gai dầu được xác định có chất ma túy thì vẫn thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ luật hình sự 2015 và thuộc vào trường hợp bị cấm trồng trọt tại Việt Nam, nếu có hành vi vi phạm thì sẽ bị chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Theo đó theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 nếu như người nào có hành vi trồng các loại cây có chất ma túy khác nếu đã được cơ quan chức năng xử phạt hành chính hay đã từng được cơ quan chức năng tổ chức phổ biến kiến thức, giáo dục tại địa phương hai lần, được cơ quan chức năng tạo điều kiện chuyển đổi nghề nghiệp ổn định cuộc sống sau khi không trồng các loại cây này nữa; hoặc trồng với số lượng cây lớn thì có thể bị xử hình sự với mức phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm tù. Nếu như số lượng cây càng nhiều và hậu quả càng nghiêm trọng, mức độ vi phạm mang tính chất có tổ chức, chuyên nghiệp, hay tái phạm nguy hiểm thì mức án tù càng cao theo quy định của pháp luật. Như vậy, để xác định cây gai dầu có thuộc vào danh mục bị cấm hay không thì cần có các văn bản công bố về hàm lượng chất ma túy trong cây bởi cơ quan có thẩm quyền.

2. Sử dụng cần sa bị phạt như thế nào?

Cho tôi hỏi tại Việt Nam, cần sa, cỏ Mỹ có phải là chất ma tuý không. Nếu có thì sử dụng những chất này sẽ bị xử phạt hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự như thế nào? Xin cảm ơn.

Trả lời:

Việc sử dụng các chất như cần sa hay cỏ Mỹ (cần sa tổng hợp) đang gây ra những hậu quả đáng lo ngại và hồi chuông báo động cho người sử dụng, gia đình và xã hội. Cỏ Mỹ có hoạt chất chính là XLR-11 (hay còn gọi là 5-fluoro-UR-144) còn hoạt chất chính trong cần sa là THC (viết tắt của delta-9-tetrahydrocannabinol).

Theo quy định tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất đã ghi nhận XLR-11; cần sa và các chế phẩm từ cần sa là chất ma túy. Trong đó, cần sa thuộc danh mục các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm phải theo quy định đặc biệt của cơ quan của thẩm quyền (Phần Mục lục, Danh mục IA, STT 45).

Vì là những chất cấm sử dụng trong đời sống nên nếu sử dụng những chất này, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, người sử dụng có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Về xử phạt hành chính, căn cứ theo khoản 1 Điều 21, Mục 2 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình về “Vi phạm các quy định về phòng, chống và kiểm soát ma túy” như sau:

“ 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy”.

Ngoài ra, còn phải chịu hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm. Nếu người vi phạm là người nước ngoài thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Về truy cứu trách nhiệm hình sự, căn cứ vào Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì tùy theo tính chất của hành vi mà người sử dụng có thể bị truy cứu trách nhiệm về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” (Điều 249) hoặc “Tội mua bán trái phép chất ma túy” (Điều 251), cụ thể như sau:

- Tội tàng trữ trái phép chất ma túy: tùy theo tính chất của hành vi và khối lượng chất ma túy tàng trữ, mức xử phạt nhẹ nhất là 01 năm tù giam và nặng nhất là tù chung thân. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể phải chịu mức xử phạt bổ sung là phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

- Tội mua bán trái phép chất ma túy: tùy theo tính chất của hành vi và khối lượng chất ma túy được giao dịch, mức xử phạt nhẹ nhất là 02 năm tù giam và nặng nhất là tử hình. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

htv mơi 333

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn!.

Luật sư bào chữa tố cáo lừa đảo tiền xin việc

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

1. Dùng giấy tờ giả lừa đảo, phạm tội gì?

Khi xử lý, các cơ quan tố tụng thiếu thống nhất về tội danh của người vi phạm: Có ý kiến cho rằng chỉ có thể xử lý hình sự người vi phạm về một tội là lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức. Ngược lại, cũng có ý kiến cho rằng phải xử lý về cả hai tội… Theo Điều 139 BLHS, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Thủ đoạn gian dối được coi là dùng công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm của người phạm tội. Tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện khác nhau để lừa được người khác. Nếu phương tiện, công cụ mà người phạm tội sử dụng cấu thành một tội phạm cụ thể thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội. Trường hợp làm giả giấy tờ và nếu hành vi này cấu thành tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức. Trường hợp này cũng giống trường hợp sử dụng súng quân dụng để giết người thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Về lý luận, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội cấu thành vật chất nhưng không vì thế mà cho rằng người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì không cấu thành tội này. Cũng như đối với các tội phạm cấu thành vật chất khác được thực hiện do cố ý, hậu quả chưa xảy ra là ngoài ý muốn của người phạm tội. Nếu cho rằng đối với tội cấu thành vật chất, hậu quả chưa xảy ra thì chưa cấu thành tội phạm, có lẽ BLHS cũng không cần quy định trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nữa. Nếu người phạm tội mới chuẩn bị giấy tờ giả (công cụ, phương tiện phạm tội) chưa giao dịch với người bị hại thì trường hợp lừa đảo chiếm đoạt tài sản này mới ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 139 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 139 BLHS thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu người phạm tội đã chuẩn bị giấy tờ giả (công cụ, phương tiện phạm tội) đã giao dịch với người bị hại nhưng người bị hại phát hiện, không giao tài sản thì trường hợp này là phạm tội chưa đạt. Người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phân biệt thuộc khoản nào của Điều 139 BLHS. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, tòa sẽ áp dụng thêm Điều 18 BLHS (phạm tội chưa đạt). Trở lại vụ việc báo nêu, H. mới đến văn phòng công chứng để công chứng giấy tờ giả thì bị phát hiện; H. chưa đưa giấy tờ giả cho ông N. nên với tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức, trường hợp của H. là phạm tội chưa đạt (chưa công chứng được). Còn với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi của H. ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. H. có ý định chiếm đoạt 200 triệu đồng, thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 139 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng) nên H. bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.

2. Tố cáo lừa đảo tiền xin việc được không?

Thưa luật sư! Luật sư tư vấn giúp tôi trường hợp cụ thể như sau : tôi tên T, sinh năm 1985 tôi và chồng quê Quảng Ngãi được mẹ xây nhà để lập nghiệp ở Đà Nẵng. Tôi và N quen nhau khi học cùng lớp liên thông đại học kế toán tại Đà Nẵng. N nói đang làm ở công an thành phố. Tôi ngỏ lời muốn nhờ N xin việc, lúc đầu chỉ có ý định xin chỗ nào làm giờ hành chính để có thời gian chăm con nhưng cứ như đang bị cuốn vào vòng xoáy. N nói xin vào Cục quản trị T26, không cần tiền (tôi nghĩ N thật thà nên tôi nghĩ mình nên biết điều và bảo: mình nên bỏ bì thư để bồi dưỡng họ uống nước thì bỏ bao nhiêu, N bảo tùy T nên tôi đã bỏ bì 5 triệu. N bảo phải có chứng chỉ tin và anh văn mới có quyết định. Tôi đã cố gắng đăng ký và thi vì N nói bằng giả không được vì có máy soi. Khi tôi thi thì N sinh con, trong thời gian ấy tôi cũng nhắn tin hối thì N nói sắp có quyết định, và N nói đưa thêm 5 triệu để chiêu đãi họ ăn nhậu. Rồi tôi vẫn thấy lâu nên hối thì N bảo do N ở cữ không đi được nên tốc độ hơi lâu. Rồi khi N hết ở cữ đã điện thoại gặp tôi thì tôi hỏi bỏ thêm để họ làm nhanh vậy nên đưa thêm bao nhiêu, N bảo tùy nên tôi đã đưa 3 triệu vì trong ví không đem theo nhiều.

Rồi hôm sau N điện thoại nói bỏ thêm 2 triệu vì 3 triệu hơi ít và tôi đồng ý. Cứ hẹn với tôi là sắp có quyết định nên em chờ. Sau đó N điện thoại gặp tôi và nói chú sếp ở cơ quan điện thoại nói tìm cho chú 1 người vì cấp trên đưa 1 chỉ tiêu vào cơ quan nhưng chưa có, nói tôi có muốn không? Làm trong công an thì có tương lai hơn với giá 100 triệu đưa trước 50 triệu còn 50 triệu thì khi làm tháng lương đầu thì đưa nốt. Và N đã thuyết phục được chồng tôi, nói rằng nếu không được sẽ trả lại tiền. Và tôi đã ra ngân hàng rút 50 triệu đưa cho N tại ngân hàng. Sau đó N điện thoại bảo có vị trí ở quận cẩm lệ gần nhà đầu tháng 2/2016 làm , nếu muốn nhanh thì phải đóng thêm 20 triệu cho chắc chắn. Thế là vợ chồng em chạy khắp nơi cũng mượn được 20 triệu để đưa. Nhưng trong lúc chờ nhập khẩu thì tôi phát hiện N cũng đang chạy việc cho 1 đứa em con cô nhưng vẫn chưa được, lúc ấy tôi thấy lo nhưng nghĩ nếu không được thì lấy tiền lại. Do trục trặc nhập khẩu nên tôi quyết định ngưng không làm và N nói qua tết tây sẽ lấy tiền về, và hẹn ngày đưa.

Nhưng không ngờ đến ngày hẹn N trốn và tắt máy. Trường hợp của tôi không có giấy nợ thì có tố cáo được không hay phải làm sao xin luật sư tư vấn cho tôi?

Luật sư Gia Đinh trả lời:

Theo thông tin bạn cung cấp thì N nhận tiền xin việc từ bạn, nhưng sau khi nhận tiền thì N không giúp được, đến ngày hẹn trả N không trả, trốn và tắt máy. Với hành vi này của N, tùy thuộc vào các tình tiết trên thực tế mà có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay một tội danh khác, hành vi của bạn chưa đúng chuẩn mực và hành vi của N cũng sai. Cụ thể chúng tôi đưa ra một số nhận định sau để bạn có thể tham khảo:

Tội đưa hối lộ?

Tội đưa hối lộ được quy định tại Điều 364 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017:

Điều 364. Tội đưa hối lộ

1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ...

Như vậy, từ quy định trên có thể hiểu đưa hối lộ là hành vi dùng tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác hoặc lợi ích phi vật chất trực tiếp hoặc qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn, hoặc người khác hoặc tổ chức khác để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Các yếu tố cấu thành tội đưa hối lộ bao gồm:

Thứ nhất, khách thể : các dấu hiệu thuộc khách thể của tội đưa hối lộ là xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức.

Thứ hai, mặt khách quan: các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội đưa hối lộ: là hành vi đưa bất kỳ lợi ích nào cho người có chức vụ quyền hạn. Hành vi ở đây được thể hiện dưới hình thức: đã đưa hoặc sẽ đưa trực tiếp hoặc qua trung gian. Việc quy định hành vi hối lộ bao gồm cả hành vi "đưa" hoặc “sẽ đưa” có thể sẽ gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố tội phạm liên quan đến xác định chứng cứ và thời điểm hoàn thành tội phạm này.

Thứ ba, mặt chủ quan: tội phạm thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.

– Trường hợp người đưa hối lộ đưa nhầm cho người không có chức vụ quyền hạn thì vẫn cấu thành tội đưa hối lộ, trường hợp người nhận biết đưa nhầm mình là người có chức vụ quyền hạn mà vẫn nhận của hối lộ thì người nhận sẽ bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

– Tội đưa hối lộ có động cơ vụ lợi. Mục đích là để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặ theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Tuy nhiên, động cơ không phải là dấu hiệu cấu thành bắt buộc của loại tội phạm này.

Thứ tư, chủ thể: Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.

Tình tiết tăng nặng:

+ Có tổ chức;

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

+ Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

+ Phạm tội 02 lần trở lên;

+ Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên.

+/ chủ thể: Các dấu hiệu về chủ thể của tội đưa hối lộ Bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.

Tội nhận hối lộ?

- Tội nhận hối lộ được quy định tại Điều 354 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017:

Điều 354. Tội nhận hối lộ

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ,..

Từ quy định trên, tội nhận hối lộ được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận bất kì lợi ích nào do Bộ luật hình sự quy định dưới bất kì hình thức nào cho mình hoặc cho người, tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.

Các yếu tố cấu thành tội nhận hối lộ

Thứ nhất, mặt khách quan: Mặt khách quan của tội nhận hối lộ có các dấu hiệu sau đây:

Về hành vi: Có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Được hiểu là sử dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để thực hiện tội phạm. Có hành vi đã nhận hoặc sẽ nhận (nghĩa là tuy nhận nhưng có việc hứa hẹn, thỏa thuận trước việc nhận), tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất, phi vật chất khác dưới bất kì hình thức nào (như tiền, vàng, xe gắn máy, quà biếu…). Việc nhận tiền, tài sản… có thể được thực hiện trực tiếp giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ nhưng cũng có thể qua trung gian (như qua người môi giới, qua bưu điện…). Việc nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích đó có thể là cho chính người đó nhưng cũng có thể cho người khác hoặc tổ chức khác.

Lưu ý: Các hành vi nêu trên phải gắn liền với nhau và với điều kiện là:

– Để làm một việc (hành động) vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ (ví dụ: Cán bộ phòng quản lí đô thị nhận hối lộ rồi tiến hành cấp giấy phép xây dựng nhanh hơn…).

– Hoặc để không làm một việc (không hành động) vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ (ví dụ: Cán bộ hải quan nhận hối lộ rồi bỏ qua không lập thủ tục xử phạt người vi phạm hành chính về hải quan…).

– Đối với trường hợp người có chức vụ, quyền hạn chủ động đòi hối lộ, thì tội phạm được coi là hoàn thành tính từ thời điểm người phạm tội tỏ rõ thái độ đòi hối lộ và người đưa hối lộ chấp nhận sự đòi hỏi đó. Trường hợp một trong hai bên tỏ thái độ hoặc đưa ra đề nghị đưa hối lộ nhưng một trong hai bên không chấp nhận (từ chối) thì không cấu thành tội nhận hối lộ vì hai bên vẫn chưa có sự thỏa thuận xong về việc đưa và nhận hối lộ.

Thứ hai, chủ thể: chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.

Thứ ba, khách thể: Hành vi phạm tội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức khinh tế của nhà nước hoặc tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước.

Thứ tư, mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý và với động cơ vụ lợi.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được cấu thành như thế nào?

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017:

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây...

Các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao gồm:

Thứ nhất, mặt khách quan: của tội này có các dấu hiệu sau:

Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản

- Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động … (ví dụ: kẻ phạm tội nói là mượn xe đi chợ nhưng sau khi lấy được xe đem bán lấy tiền tiêu xài không trả xe cho chủ sở hữu) và bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.

- Chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối.

Như vậy, có thể phân biệt với những trường hợp dùng thủ đoạn gian dối khác, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo đếm gian dối nhằm ăn gian, bớt của khách hàng hoặc để bán hàng giả để thu lợi bất chính thì không cấu thành tội này mà cấu thành tội lừa dối khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.

Thứ hai, khách thể: Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.

Thứ ba, mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.

Thứ tư, chủ thể: chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, do bạn chưa nói rõ cụ thể hành vi và mục đích của các bên, nên bạn có thể dựa trên các yếu tố cấu thành của các tội phạm trên đây, từ đó đưa ra cách giải quyết cho mình.

21.666

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn!.

Luật sư tư vấn tội sử dụng điện trái phép làm chết người

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

1. Sử dụng điện trái phép làm chết người thì phạm tội gì?

Hỏi:

Sử dụng điện trái phép làm chết người thì phạm tội gì?

Trả lời:

Việc sử dụng điện trái phép gây hậu quả chết người tùy từng trường hợp cụ thể sẽ bị xử theo những tội danh khác nhau. Tuy nhiên ở một số công văn của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao cũng đã đề cập đến. Theo mục 12, Phần I, Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của TANDTC “Giải đáp, hướng dẫn các vấn đề về nghiệp vụ” thì để xét xử đúng tội cần phải xem xét từng trường hợp cụ thể. Về nguyên tắc, TANDTC hướng dẫn như sau:

Đối với trường hợp sử dụng điện trái phép để chống trộm cắp mà làm chết người thì người phạm tội phải bị xét xử về tội giết người.

Đối với trường hợp sử dụng điện trái phép để diệt chuột, chống súc vật phá hoại mùa màng thỡ cần phân biệt như sau:

- Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi có nhiều người qua lại (cho dù có làm biển báo hiệu), biết việc mắc điện trong trường hợp này là nguy hiểm đến tính mạng con người, nhưng cứ mắc hoặc có thái độ bỏ mặc cho hậu quả xảy ra và thực tế có người bị điện giật chết, thỡ người phạm tội bị xét xử về tội giết người.

- Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi họ tin rằng không có người qua lại, có sự canh gác cẩn thận, có biển báo nhưng hậu quả có người bị điện giật chết thỡ người phạm tội bị xét xử về tội vô ý làm chết người.

2. Có được hỏi cung người đang bị bệnh?

Câu hỏi: Bố em bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị công an quận tam giam để tiếp tục điều tra. Do bố em bị ung thư hạch di căn nên được tại ngoại để tiếp tục chữa bệnh, trong thời gian được tại ngoại cơ quan công an liên tục gửi giấy triệu tập có mặt để hỏi cung. Vậy phòng luật sư cho em hỏi quy định của việc hỏi cung như thế nào và có được hỏi cung người đang bị bệnh không?

Trả lời: Theo Điều 131 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định về việc Hỏi cung bị can như sau:

"1. Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó.

Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này. Việc này phải được ghi vào biên bản.

Nếu vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị can tự viết lời khai của mình.

2. Không hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.

3. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể hỏi cung bị can. Việc hỏi cung bị can được tiến hành theo quy định tại Điều này.

4. Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 299 hoặc Điều 298 của Bộ luật hình sự."

Như vậy, theo quy định trên thì bị can không phân biệt có bệnh hay không có bệnh vẫn thuộc đối tượng bị hỏi cung. Việc hỏi cung có thể tiến hành tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của bị can. Do đó, trong trường hợp của bố bạn, bạn có thể làm đơn đề nghị Điều tra viên tiến hành thủ tục hỏi cung tại nơi ở của bố bạn để không bị ảnh hưởng tới quá trình điều trị bệnh.

HTV XANH111

 

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

Trân trọng cảm ơn!.

Luật sư bào chữa tội cướp giật tài sản theo Bộ luật hình sự mới

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

1. Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

(VBF) - Theo báo cáo của các Đoàn luật sư trong cả nước, chỉ tính trong 02 năm 2010 và 2011, các luật sư đã tham gia bào chữa trong 32234 vụ án hình sự, trong đó có 17348 vụ do thân chủ mời, 14886 vụ theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong năm 2012, số liệu chưa thống kê chính thức, nhưng số lượng các vụ án có luật sư tham gia ngày càng nhiều. Thực tiễn này cho thấy những đóng góp tích cực của đội ngũ luật sư trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Việc luật sư tham gia tố tụng không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của các đương sự mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, sai lầm, hạn chế oan sai, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động nghề luật sư, hầu hết các luật sư đều nhìn nhận rằng trong suốt quá trình tố tụng điều tra, truy tố, xét xử thì những khó khăn của luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra được phản ánh nhiều nhất. Đặc biệt nổi cộm lên là vấn đề luật sư thường hay bị cơ quan điều tra gây khó khăn trong việc cấp Giấy chứng nhận bào chữa (GCNBC), tham gia hỏi cung bị can, tiếp cận hồ sơ vụ án gây ảnh hưởng đến quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra. Mặc dù, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, đặc biệt là Thông tư số 70/2011/TT-BCA ngày 10 tháng 10 năm 2011 (Thông tư 70) của Bộ Công an quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã có những quy định cụ thể về quyền bào chữa của luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự, nhưng vẫn tồn tại những hạn chế ảnh hưởng đến kết quả, chất lượng hoạt động tham gia tố tụng của luật sư, cần phải được khắc phục và tháo gỡ kịp thời.

I. Thực tiễn hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

1. Việc cấp GCNBC cho luật sư

Theo quy định tại khoản 1 Điều 57 BLTTHS thì “người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn”, và luật sư là một trong những đối tượng được làm người bào chữa theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 56 BLTTHS. Theo quy định tại Điều 5 Thông tư 70, khi luật sư được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời hoặc được Đoàn luật sư phân công theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thì luật sư phải làm thủ tục đề nghị cấp GCNBC gửi Cơ quan điều tra đang thụ lý vụ án. Sau khi được Cơ quan điều tra có thẩm quyền cấp GCNBC thì Luật sư mới bắt đầu tham gia tố tụng vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa cho thân chủ (người bị tạm giữ, bị can,...).

Cũng theo quy định tại Điều 5 Thông tư 70, thủ tục cấp GCNBC đối với luật sư được tiến hành như sau: Luật sư đề nghị cấp GCNBC và tham gia tố tụng gửi hồ sơ (bao gồm: Bản sao có chứng thực thẻ luật sư; Giấy yêu cầu luật sư; Giấy giới thiệu; Văn bản phân công của Đoàn luật sư trong một số trường hợp) đến Cơ quan điều tra đang thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày (hoặc trong thời hạn 24 giờ đối với trường hợp tạm giữ người) kể từ khi nhận đủ các giấy tờ hợp lệ, Cơ quan điều tra có thẩm quyền phải xem xét, cấp GCNBC để họ thực hiện việc bào chữa, nếu từ chối cấp GCNBC thì phải có văn bản nêu rõ lý do.

Tuy nhiên, trên thực tế ở nhiều địa phương, để được cấp GCNBC, luật sư phải xuất trình đơn yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, thẻ luật sư và cả chứng chỉ hành nghề luật sư. Trong khi đó, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thì việc có được đơn yêu cầu nhờ luật sư của họ là điều hết sức khó khăn. Còn đối với đơn yêu cầu luật sư của thân nhân người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thì phải chờ Cơ quan điều tra xác minh quan hệ, rồi hỏi ý kiến của người bị tạm giữ, bị can mới tiến hành cấp Giấy chứng nhận (điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào “thiện chí” của Cơ quan điều tra).

Thực tiễn cũng cho thấy việc cấp GCNBC trong thời hạn quy định (3 ngày) là rất hiếm mà thường luật sư không có căn cứ để khiếu nại vì toàn bộ việc giao nhận thủ tục giữa luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng đều được thực hiện thông qua trao tay trực tiếp mà không có bất kỳ một văn bản nào ghi nhận việc đã giao nhận này; còn nếu luật sư dùng biện pháp chuyển hồ sơ qua đường bưu điện để làm chứng cứ xác định việc đã giao nộp thì cho đến khi quá thời hạn xét cấp GCNBC nếu có khiếu nại thì sẽ được trả lời là người có trách nhiệm chưa nhận được các văn bản này do … bị thất lạc ở đâu đó! Thậm chí có nơi cán bộ điều tra còn dùng biện pháp nghiệp vụ để bị can đang bị tạm giam từ chối luật sư, đó có thể chỉ là lời dọa dẫm nếu mời luật sư thì “chỉ có nặng hơn” hoặc nhiều hình thức khác o ép về tinh thần để bị can từ chối luật sư.

2. Luật sư tham gia lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can

Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 BLTTHS, trong giai đoạn điều tra vụ án, luật sư có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; gặp người bị tạm giữ, gặp bị can đang bị tạm giam,… Các quyền này cũng được quy định cụ thể tại Điều 7 Thông tư 70 như sau: Điều tra viên phải giao các quyết định tố tụng liên quan đến người được bào chữa, thông báo cách thức liên lạc của Cơ quan điều tra cho luật sư bào chữa; Điều tra viên phải thông báo về thời gian, địa điểm lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can cho người bào chữa trước 24 giờ (trước 48 giờ đối với người ở xa);….và“Khi người bào chữa có văn bản đề nghị Cơ quan điều tra cho gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thì Cơ quan điều tra làm các thủ tục theo quy định của pháp luật để người bào chữa gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm; nếu từ chối cho gặp phải thông báo cho người bào chữa biết bằng văn bản và nêu rõ lý do từ chối”.

Tuy nhiên, việc luật sư xin được gặp bị can đang bị tạm giam còn gặp nhiều khó khăn. Việc gặp bị can trong giai đoạn điều tra bắt buộc phải có mặt Điều tra viên nên khi luật sư đề nghị được gặp bị can thì thông thường là lần đầu không được đáp ứng, các lần hẹn sau cũng không chắc chắn gặp được vì Điều tra viên lấy lý do bận công việc đột xuất … Nhiều khi Cơ quan Điều tra không thông báo thời gian hỏi cung hoặc đã hẹn ngày nhưng sau đó lại hoãn, đôi khi hoãn nhiều lần nhằm tránh việc luật sư tham dự hỏi cung bị can. Còn việc được gặp người bị tạm giữ đối với luật sư thì chỉ là quyền trong lý thuyết mà thôi.

2. Tư vấn tội cướp giật tài sản theo Bộ luật hình sự

Thứ nhất: Các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản

Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này thể hiện qua dấu hiệu sau:

– Có hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai và nhanh chóng. Được hiểu là người phạm tội không cần che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác mà thực hiện trước mặt mọi người một cách táo bạo bất ngờ và dứt khoát trong một thời gian rất ngắn.

– Để thực hiện được hành vi này người phạm tội không sử dụng vũ lực (tuy một số trường hợp có sử dụng sức mạnh như đạp, xô cho bị hại té để cướp), cũng không đe dọa sử dụng vũ lực hay uy hiếp tinh thần của người bị hại như trong tội cướp tài sản mà chỉ dựa vào sự nhanh nhẹn của bản thân và sự sơ hở của người bị hại, hay trường hợp người bị hại không đủ khả năng bảo vệ tài sản (chẳng hạn như trẻ em, người già, phụ nữ…) để giật lấy tài sản của họ và tẩu thoát.

– Đặc trưng của hành vi chiếm đoạt của tội phạm này là được thực hiện một cách bất ngờ và nhanh chóng (trong một khoản thời gian rất ngắn, thường chỉ trong một vài giây là đã thực hiện xong hành vi chiếm đoạt) làm cho người bị hại không kịp ứng phó. Đồng thời ngay sau khi đoạt được tài sản từ tay người bị hại, người phạm tội cũng nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh khỏi việc truy đuổi của người bị hại. Thông thường thì người phạm tội có sử dụng phương tiện để thực hiện tội phạm (như dùng xe phân khối lớn để cướp giật…)

Lưu ý:

+ Đối tượng của hành vi cướp giật tài sản (tương tự như đối tượng của tội cướp tài sản). Tuy nhiên thông thường là nữ trang, tiền và các giấy tờ có giá trị như tiền, là những vật nhẹ, gọn, dễ lấy và cất giấu một cách dễ dàng.

+ Nhiều trường hợp người phạm tội cũng sử dụng thủ đoạn tinh vi để tạo sơ hở mất cảnh giác của chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản để thực hiện hành vi cướp giật.

Ví dụ: giả vờ hỏi mua điện thoại di động, khi được chủ tài sản đưa cho xem đã nhanh chóng tẩu thoát cầm theo chiếc điện thoại.

+ Trường hợp người bị hại giữ, giằng, giật lại tài sản khi bị cướp giật tài sản của mình, thì ngay lúc đó người có hành vi cướp giật sử dụng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản đó. Trường hợp này là sự chuyển hoá tội phạm, từ tội cướp giật tài sản sang tội cướp tài sản.

+ Tính chất công khai ở tội này cũng là công khai về hành vi đối với người bị hại, người phạm tội có thể giấu mặt, lợi dụng ban đêm khi thực hiện hành vi cướp giật. Việc giấu mặt đó không ảnh hưởng đến tính công khai của hành vi cướp giật.

+ Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã giật được tài sản. Nếu không cướp giật được tài sản mà không phải do tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Định lượng tài sản chiếm đoạt không phải là yếu tố định tội mà chỉ là yếu tố định khung hình phạt.

Khách thể:

Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.

Mặt chủ quan:

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.

Chủ thể:

Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.

Thứ hai: về hình phạt.

Mức hình phạt đối với tội này được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:

– Khung một (khoản 1)

Có mức phạt tù từ một năm đến năm năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nếu ở mặt khách quan.

– Khung hai (khoản 2)

Có mức phạt tù từ ba năm đến mười năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

+ Có tổ chức (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

+ Có tính chất chuyên nghiệp (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

+ Dùng thủ đoạn nguy hiểm. Được hiểu là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật tài sản rất táo bạo, có thể gây thiệt hại đến sức khoẻ, tính mạng của chủ sở hữu tài sản, hoặc người quản lý tài sản như cướp giật tài sản của người đang đi xe gắn máy trên đường phố rồi đạp người bị hại ngã để tẩu thoát.

+ Hành hung để tẩu thoát. Được hiểu là hành vi của người phạm tội dùng vũ lực (như đấm, đá, dùng gậy đánh…) chống trả lại việc đuổi bắt nhằm mục đích tẩu thoát khỏi sự truy đuổi của người bị hại hoặc những người khác.

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%.

+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.

+ Gây hậu quả nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

– Khung ba (khoản 3)

Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

– Khung bốn (khoản 4)

Có mức phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người.

+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.

+ Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).

– Hình phạt bổ sung (khoản 5)

Ngoài việc chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng)

 thu nha 20207

Luật sư Trần Minh Hùng chuyên gia tư vấn luật trên kênh HTV, VTV, THVL1, ANTV, SCTV1...

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. 

 Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng Luật sư Gia Đình- Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình có nhiều năm kinh nghiệm tranh tụng, tư vấn được rất nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm và thường xuyên cố vấn pháp lý, tư vấn pháp luật trên các Kênh truyền hình uy tín như:  Đài Truyền hình TPHCM (HTV), Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài truyền hình Vĩnh Long, Truyền hình Công an ANTV, SCTV, THQH, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài VOV Giao Thông, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài phát thanh Kiên Giang, Truyền hình Quốc Hội, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân và các hãng báo chí trên cả nước... là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho nhiều cuộc thi Phiên tòa giả định cấp trường ĐHL, Cấp Quốc Gia, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân, Nhiều trường đại học uy tín và chuyên gia pháp luật cho các hãng truyền thông uy tín. Là Luật sư  bào chữa, tư vấn cho nhiều vụ án đỉnh điểm, quan trọng nổi tiếng trên cả nước được báo chí đưa tin, người dân quan tâm như vụ đại án Ngân hàng Navibank liên quan Huyền Như và Viettinbank, Vụ cướp 35 tỷ Long Thành - Dầu giây, Chống thi hành công vụ mùa Covid, các vụ Giết Người, Hiếp dâm, Dâm ô, Lừa Đảo, gây thương tích, tham ô, cố ý làm trái... và các vụ án khác về dân sự, kinh tế, thừa kế, đất đai, lao động, hành chính, doanh nghiệp.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực sự công bằng, đi tìm công lý không biết mệt mỏi cho xã hội của luật sư chúng tôi.

Chúng tôi cùng tư vấn luật và cố vấn pháp lý cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước rất lâu năm.

 

Trân trọng cảm ơn!.

Tư vấn tội cướp giật tài sản theo Bộ luật hình sự
Thứ nhất: Các yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này thể hiện qua dấu hiệu sau:
– Có hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai và nhanh chóng. Được hiểu là người phạm tội không cần che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác mà thực hiện trước mặt mọi người một cách táo bạo bất ngờ và dứt khoát trong một thời gian rất ngắn.
– Để thực hiện được hành vi này người phạm tội không sử dụng vũ lực (tuy một số trường hợp có sử dụng sức mạnh như đạp, xô cho bị hại té để cướp), cũng không đe dọa sử dụng vũ lực hay uy hiếp tinh thần của người bị hại như trong tội cướp tài sản mà chỉ dựa vào sự nhanh nhẹn của bản thân và sự sơ hở của người bị hại, hay trường hợp người bị hại không đủ khả năng bảo vệ tài sản (chẳng hạn như trẻ em, người già, phụ nữ…) để giật lấy tài sản của họ và tẩu thoát.
– Đặc trưng của hành vi chiếm đoạt của tội phạm này là được thực hiện một cách bất ngờ và nhanh chóng (trong một khoản thời gian rất ngắn, thường chỉ trong một vài giây là đã thực hiện xong hành vi chiếm đoạt) làm cho người bị hại không kịp ứng phó. Đồng thời ngay sau khi đoạt được tài sản từ tay người bị hại, người phạm tội cũng nhanh chóng tẩu thoát nhằm tránh khỏi việc truy đuổi của người bị hại. Thông thường thì người phạm tội có sử dụng phương tiện để thực hiện tội phạm (như dùng xe phân khối lớn để cướp giật…)
Lưu ý:
+ Đối tượng của hành vi cướp giật tài sản (tương tự như đối tượng của tội cướp tài sản). Tuy nhiên thông thường là nữ trang, tiền và các giấy tờ có giá trị như tiền, là những vật nhẹ, gọn, dễ lấy và cất giấu một cách dễ dàng.
+ Nhiều trường hợp người phạm tội cũng sử dụng thủ đoạn tinh vi để tạo sơ hở mất cảnh giác của chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản để thực hiện hành vi cướp giật.
Ví dụ: giả vờ hỏi mua điện thoại di động, khi được chủ tài sản đưa cho xem đã nhanh chóng tẩu thoát cầm theo chiếc điện thoại.
+ Trường hợp người bị hại giữ, giằng, giật lại tài sản khi bị cướp giật tài sản của mình, thì ngay lúc đó người có hành vi cướp giật sử dụng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản đó. Trường hợp này là sự chuyển hoá tội phạm, từ tội cướp giật tài sản sang tội cướp tài sản.
+ Tính chất công khai ở tội này cũng là công khai về hành vi đối với người bị hại, người phạm tội có thể giấu mặt, lợi dụng ban đêm khi thực hiện hành vi cướp giật. Việc giấu mặt đó không ảnh hưởng đến tính công khai của hành vi cướp giật.
+ Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã giật được tài sản. Nếu không cướp giật được tài sản mà không phải do tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Định lượng tài sản chiếm đoạt không phải là yếu tố định tội mà chỉ là yếu tố định khung hình phạt.
Khách thể:
Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
Mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
Chủ thể:
Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ hai: về hình phạt.
Mức hình phạt đối với tội này được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:
– Khung một (khoản 1)
Có mức phạt tù từ một năm đến năm năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nếu ở mặt khách quan.
– Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ ba năm đến mười năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Có tổ chức (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
+ Có tính chất chuyên nghiệp (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
+ Dùng thủ đoạn nguy hiểm. Được hiểu là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật tài sản rất táo bạo, có thể gây thiệt hại đến sức khoẻ, tính mạng của chủ sở hữu tài sản, hoặc người quản lý tài sản như cướp giật tài sản của người đang đi xe gắn máy trên đường phố rồi đạp người bị hại ngã để tẩu thoát.
+ Hành hung để tẩu thoát. Được hiểu là hành vi của người phạm tội dùng vũ lực (như đấm, đá, dùng gậy đánh…) chống trả lại việc đuổi bắt nhằm mục đích tẩu thoát khỏi sự truy đuổi của người bị hại hoặc những người khác.
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%.
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.
+ Gây hậu quả nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
– Khung ba (khoản 3)
Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
– Khung bốn (khoản 4)
Có mức phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người.
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.
+ Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
– Hình phạt bổ sung (khoản 5)
Ngoài việc chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng)
 

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006