Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật Sư Chuyên Bào Chữa Các Vụ Án Hình Sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Chúng tôi luật sư giỏi và chuyên bào chữa các vụ án hình sự uy tín, khó khăn tại TPHCM và khắp cả nước và dành được nhiều thành công nhất định được nhiều hãng báo chí, truyền thông, đài truyền hình phỏng vấn về các vụ án đỉnh điểm.

Cá nhân là bị can, bị cáo, người bị hại trong vụ án hình sự được quyền yêu cầu Luật sư đứng ra bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Quyền này được quy định tại các Điều 49, Điều 50 và Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự Nước CHXHCN Việt Nam năm 2004.

 

 I/- SƠ LƯỢC VỀ THỦ TỤC BÀO CHỮA CHO THÂN CHỦ :

Cá nhân là bị can, bị cáo, người bị hại trong vụ án hình sự được quyền yêu cầu Luật sư đứng ra bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Quyền này được quy định tại các Điều 49, Điều 50 và Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự Nước CHXHCN Việt Nam năm 2004.

- Theo khoản 1 Điều 49 BLTTHS quy định : “ Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự”

- Theo khoản 1 Điều 50 BLTTHS quy định : “Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”

- Theo khoản 1 Điều 51 BLTTHS quy định : “ Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”

Trong ba đối tượng trên, luật pháp đều cho phép được quyền yêu cầu Luật sư Tham gia tố tụng bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Văn phòng chúng tôicó đầy đủ đội ngũ Luật sư có năng lực chuyên môn giỏi và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp luật sư tốt để đảm nhận bào chữa án hình sự.

Những người bị can bị cáo, bị bắt nếu có yêu cầu luật sư thì thủ tục như sau:

1) Thân chủ làm Giấy yêu cầu Văn phòng luật sư cử luật sư tham gia tố tụng bào chữa cho thân chủ.

2) Ký Hợp đồng tham gia tố tụng bào chữa cho thân chủ

3) Văn phòng luật sư ký giấy giới thiệu cử luật sư bào chữa cho thân chủ

LS Trần Minh Hùng Bào Chữa Về Tội Cố Ý Gây Thương Tích

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc.

BÀI BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO ĐẶNG SINH VÀ LƯỢNG MINH TIẾN

Tôi: LS TRẦN MINH HÙNG- TRƯỞNG VPLS GIA ĐÌNH, ĐOÀN LS TPHCM, xin bào chữa cho bị Đặng Sinh và Lượng Minh Tiến bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc truy tố về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 2, điều 104 Bộ luật hình sự như sau:

Nội dung bào chữa cho bị cáo Tiến:

          Theo Tiến thì vào khoảng 13h 30 ngày 03 tháng 12 năm 2016 tại Bàu Đen xã Bưng Riềng khu vực trồng cao su thuộc Phân trường Lâm nghiệp tỉnh BRVT. ông Tiến chạy thuê chở tràm cho ông Hàn có đi ngang qua lô cao su thuộc phân trường nói trên,  lúc đang đi ngang qua khu vực trồng cao su, có hai người đàn ông đi 1 chiếc xe máy chạy đến chặn đầu xe Tiến lại  và đòi bắt Tiến và bắt xe Tiến, hỏi tại sao bắt thì 02 ông này cho rằng bảo vệ Phân Trường nhưng ông Tiến không thấy mặc quần áo hay thẻ bảo vệ. Tiến có nói: “Tôi chỉ chở thuê Tràm không làm gì tôi sẽ chạy đường khác về không về lại đường này nữa nếu các anh không cho, tôi đã chạy 1 lần trước đó mà không thấy ai nhắc nhở cấm gì”, hai người đó là ông Phan Việt Hùng và 1 người đi chung là anh Đạt vẫn tiếp tục đòi bắt Tiến và đe dọa Tiến, Tiến đã trả lời: “em đang đi trên đường mòn từ xưa đến nay, con đường này tư xưa đến này có sẵn, anh không có quyền bắt Tôi. Hơn nữa con đường này không thấy ghi bảng cấm vào, cấm đi”, theo Tiến thì lúc này 2 anh chạy đến nắm tay Tiến và lôi Tiến xuống xe, hai anh liên tục đánh vào người và mặt Tiến và khống chế, khóa tay Tiến ra phía sau gần 1 tiếng đồng hồ.

          Tiến đã van xin năn nỉ thả nhưng họ không đồng ý và vẫn tiếp tục khống chế và ép Tiến xuống đất làm thở không được và đau cả người… 1 lúc sau hai anh đã đồng ý thả Tiến và Tiến đã gọi cho cho Thành là cháu Tiến nhờ cháu gọi cho  công an xã Bưng Riềng ( anh Hận) vào chứng kiến và lập biên bản, nhưng anh Hận  không  vào và cháu Lượng Công Thành (SN 1989) đã điện thoại  cho mấy ông cậu vào để can ngăn sự việc ( Lượng Văn Cường  SN 1970, Lượng Văn  Hùng  SN 1968, Lượng Minh Tuấn SN 1975, Bùi Văn Cường  SN1965, Đặng Sinh SN 1985) và Tiến kể lại sự việc cho anh Lượng Văn Cường nghe. Lúc các anh đến thì giữa các bên có cãi nhau rất kịch liệt, ông Hùng vẫn tỏ ra thách thức anh em Tiến, lúc này phía bên ông Hùng cũng có thêm 2 người vào. Tiến có nói với mấy anh em là ông Phan Việt Hùng và anh Đạt đã đánh Tiến nên Lúc này anh Phan Việt Hùng  bỏ chạy và Tiến chạy theo, đánh vài cái bằng tay không , anh Phan Việt Hùng  nói:” tụi bay không được quyền đánh Tao”, trong lúc dằng co xô xát cháu Sinh đã lấy đoạn tre làm nhà chòi của quán đánh anh Phan Việt Hùng và ông Hùng lấy tay đỡ.  Anh Lượng Văn Hùng can kêu Tiến và Sinh không đánh nữa và đã bỏ về….

            Vào khoản 15h cùng ngày Tiến và anh Lượng Văn Cường có lên UBND xã Bưng Riềng trình báo, anh Luận công an viên tiếp Tiến và anh Lượng Văn Cường, nhưng 1 lúc sau anh Luận gọi một anh khác cũng là công an viên ra lập biên bản vụ việc trình báo của Tiến chứ không như kết luận điều tra là công an mời các bị cáo lên làm việc.

          Khoản 2 đến 3 ngày sau Tiến có thuê cháu Thành  vào tiếp tục chở tràm cho nhà ông Hàn vì lí do Tiến  bị đánh hôm rồi còn đau nên không thể chở tràm được, Tiến chạy xe máy vào con đường xảy ra vụ việc vừa rồi  để đi vào coi tràm cháu Thành  chở , thì Tiến phát hiện thấy 1 cây cao su ngã đỗ, và có chạy  về trình báo với trưởng  công an xã là anh Tu với anh Luận vô xác minh hiện trường, anh Vũ là an ninh của huyện cũng có mặt buổi hôm đó, chụp hình lại.

       Khoảng 5 ngày sau anh Lượng Văn  Hùng với anh Lượng Văn  Cường có thay mặt Tiến đến nhà anh Phan Việt  Hùng để thăm sức khỏe và có chút quà gửi anh bồi bổ nhưng anh Phan Việt Hùng từ chối không nhận. Và tiếp tục mấy lần sau Tiến vẫn nhờ anh Lượng Văn  Cường để qua thăm nom xin lỗi về vụ đánh nhau nhưng vẫn bị cự tuyệt không chấp nhận lời xin lỗi của Tiến.  Và lần gần vào ngày 25 tháng 02 năm 2017 Tiến  đi một  mình vào nhà anh Phan Việt Hùng gặp vợ và con anh Hùng, anh Phan Việt Hùng không có ở nhà, Tiến đã nói chuyện xin lỗi vợ  con anh Phan Việt Hùng,  nhờ  chị nói giúp anh Phan Việt Hùng bỏ qua vì chuyện nóng nảy xảy ra xô xát không ai muốn, và Vợ của anh Phan Việt Hùng  cũng đã đồng ý chuyển lời lại giúp cho tồi về việc này.

Sự việc xảy ra xô xát ngày ngày 03 tháng 12 năm 2016 bên nào cũng có lỗi, con đường mòn nhiều người đi thì Tiến đi chỉ đi chở Tràm thuê cho ông Hàn - ông Hàn làm chứng sự việc Tiến chạy chở thuê Tràm, con đường này nhiều người đi và chính Cáo trạng kết luận đây là con đường mòn nhiều người đi tạo thành lối mòn việc ông Hùng và ông Đạt tự đòi bắt xe ông Tiến là không có căn cứ sau đó xưng là bảo vệ nhưng không mặc quần áo bảo vệ và không đưa thẻ nên ông Tiến cũng không biết 02 ông này có phải bảo vệ không mà đòi bắt Tiến, đè Tiến xuống rồi đánh Tiến, Tiến không vi phạm luật sao lại đánh ghè Tiến xuống đất và khóa tay Tiến ra phía sau cả tiếng đồng hồ làm Tiến rất bức xúc và bị kích động rõ rệt. Tiến đã vào con đường này 1 lần trước đó sau đó quay lại đi lần thứ 2, vậy sao lần 1 không yêu cầu Tiến ra mà cho Tiến đi lần 2? Con đường thì không có bảng cấm, biển hiệu gì, trong khi Theo luật giao thông đường bộ thì nếu là đường cấm thì phải có biển hiệu cấm (điều 10, k4, điểm a Luật giao thông đường bộ đã quy định rõ. Ông Hùng, ông Đạt đã có lỗi trước và làm cho Tiến bị kích động rất nhiều dù Tiến đã cố gắng kiếm chế. Liệu ông Hùng, Đạt có được phân công trực làm bảo vệ hôm đó không khi Tiến yêu cầu cung cấp thẻ bảo vệ cho Lâm Trường thì 02 ông này không cung cấp được, Tiến không biết họ là ai? Con đường vào Lâm Trường này là con đường mòn đã có từ lâu đời và nhiều người dân ra vào đây liên tục không bị cấm và không hề có bảng cấm? Sau sự việc xảy ra với Tiến thì Công ty này mới đưa cây rào sơ sài lại để buổi xác minh hiện trường ghi là có cây để ngang. Theo từ điển tiếng việt thì đường mòn là đường do nhiều người đi lại nhiều lần mà hình thành, có từ lâu không được làm mới. Như vậy, con đường này đã có từ xưa, ai cũng đi ngang qua và chính cáo trạng Viện kiểm sát cũng thừa nhận. Vậy tại sao Kết luận điều tra cho rằng Nguyên nhân xảy ra vụ án trên do lỗi của Tiến tự ý điều khiển xe máy cày đi sai vào giữa 2 hàng cây....đây là điều hết sức mâu thuận và kết tội Tiến thiếu căn cứ.

Cơ quan điều tra Công an huyện Xuyên Mộc kết luận Tiến phạm tội theo khoản 2, điều 134 và áp dụng điểm o, a là chưa đúng, và cho rằng Tiến phạm tội với vai trò là đồng phạm xúi dục, kích động là chưa đúng.

Cụ th điểm o, khoản 2, điều 134 là Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân

Trong khi Theo Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước 2009, quy định  tại điều 3, khoản 1 như sau: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án”.

Luật cán bộ, công chức 2008 quy định.

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

Luật này quy định về cán bộ, công chức; bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức; nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức và điều kiện bảo đảm thi hành công vụ.

Điều 2. Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức

Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan.

Điều 4. Cán bộ, công chức

1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.

3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Căn cứ quy định trên như vậy, ông Hùng chỉ là nhân viên bảo vệ của Công ty, không phải là cán bộ công chức thi hành công vụ theo Luật cán bộ công chức và Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước nên không thể quy kết ông Tiến phạm tội thuộc trường điểm O.

Ngoài ra, ông Tiến không dùng hung khí nguy hiểm mà cũng không đánh ai bị thương nên cũng không thể kết tội Tiến theo điểm a điều 134 là dùng hung khí nguy hiểm là không chính xác.

Khoản 2 Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 có quy định về người xúi giục như sau:

"Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.”

Như vậy ông Sinh trên 18 tuổi, đủ năng lực hành vi dân sự không thể ông Tiến kích động hay dụ dỗ, thú đẩy được với chỉ 1 câu nói “đánh đi rồi tính sau” thì không thể kết tội Tiến với vai trò đồng phạm là người xúi dục như cáo trạng và kết luận điều tra. Hành vi xúi giục phải trực tiếp, nghĩa là kẻ xúi giục phải nhằm vào một hoặc một số người nhất định. Việc kêu gọi, hô hào mà không hướng tới những người xác định thì không phải là hành vi xúi giục.

Hành vi xúi giục phải cụ thể, nghĩa là phải nhằm gây ra việc thực hiện tội phạm nhất định. Việc truyền bá, phổ biến, gieo rắc những tư tưởng xấu cho một người hoặc một số người và khiến những người này đi vào con đường phạm tội cũng không phải là hành vi xúi giục trong đồng phạm .

Về mặt chủ quan, cần xác định người xúi giục cần có ý định rõ ràng thúc đẩy người phạm tội. Những người có lời nói hoặc việc làm có thể gây ảnh hưởng đến việc phạm tội của người khác nhưng không có ý định thúc đẩy người này phạm tội thì cũng không phải là người xúi giục.

Không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm. Tiến không gây thương tích cho ai, không cầm hung khí, không chỉ đạo Sinh đánh ai hay hô Sinh đánh, mà chỉ hô chung chung nên không thể là đồng phạm.

Đồng phạm giản đơn: là tất cả những người cùng thực hiện một tội phạm đều là người thực hành, Tiến không thực hiện hành vi gây thương tích nên không thể là đồng phạm giản đơn.

Tiến không gọi ông Sinh mang cây đến đánh ông Hùng, ông Đạt vậy tại sao xử ký hình sự Tiến? Tiến chỉ đánh ông Hùng bằng tay không và chưa bị thương tích gì thì làm sao Tiến có thể là đồng phạm tội cố ý gây thương tích? Tại sao ông Hùng, Đạt đánh, bắt, giữ Tiến trước hàng tiếng đồng hồ thì không xem xét lỗi của những người này.

Tiến yêu cầu thực nghiệm điều tra theo quy định pháp luật nhưng không được cơ quan tố tụng chấp nhận trong khi vụ án cần phải thực nghiệm điều tra mới khách quan.

Cáo trạng khi kết tội Tiến theo khoản 2, điều 104 là chưa áp dụng những tình tiết có lợi cho người bị buộc tội. Cụ thể Quốc hội khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13......... Mà theo đó:

-Tại khoản 3 Điều 1 của Nghị quyết này quy định:“Tiếp tục áp dụng Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 37/2009/QH12); Bộ luật tố tụng hình sự số 19/2003/QH11; Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự số 23/2004/PL-UBTVQH11 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Pháp lệnh số 30/2006/PL-UBTVQH11 và Pháp lệnh số 09/2009/PL-UBTVQH12); Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm giam (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 98/2002/NĐ-CP và Nghị định số 09/2011/NĐ-CP của Chính phủ) cho đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành.”.

-Tại điểm b khoản 4 Điều 1 của Nghị quyết 144/2016/QH13 có quy định:“Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 tại điểm a khoản này;”.
Theo những quy định này, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đồng thời áp dụng quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và những quy định có lợi cho người bị buộc tội quy định trong BLTTHS năm 2015. 

Căn cứ quy định trên thì khi giải quyết phải áp dụng điều luật mới với khung hình phạt  tại khoản 2, điều 134 là có lợi cho bị can bị cáo nên phải áp dụng quy định có lợi cho bị can bị cáo.

Như vậy, kết luận điều tra và Cáo trạng không thống nhất nhau khi kết luận điều tra thì áp dụng luật mới để kết tội Tiến còn Cáo trạng thì áp dụng luật cũ để truy tố Tiến. Đây là điều không thống nhất và áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án là chưa đúng.

Kết luận điều tra số 53/KLĐT chưa đúng với lời trình bày Tiến, cụ thể:

Ông Hùng và ông Đạt khi đánh Tiến không mặc trang phục bảo vệ mà chỉ mặc áo bình thường như Tiến đã khai nhiều lần, Công an huyện Xuyên Mộc vẫn ghi 02 ông mặc trang phục là không đúng.

Khi Tiến đi vào khu này không có bất kỳ cây cao su nào gãy như bản kết luận điều tra nêu.

Ông Hùng không có giải thích gì mà ngay sau khi thấy Tiến  đã đánh và vặt tay Tiến ra phía sau cùng với ông Dũng.

Tiến không thách thức, đạp xe như kết luận điều tra nêu. Bởi nếu bước lên máy cày cầm tay Tiến lôi xuống thì làm sao Tiến có thể đạp ga xe bỏ chạy, đây là điều mâu thuẫn của bản kết luận điều tra.

Kết luận cho rằng bị cáo gọi cho Thành báo  bị đánh gọi cho ông Hàn báo bị đánh là sai chưa đúng. Tại các bản khai Tiến kêu gọi cho Thành để nhờ Thành kêu công an ra vì Tiến không có số ông Hận công an xã.

Việc kết luận cây cao su bị bánh xe đè lên là không có trong hiện trường, kết luận điều tra lại đưa vào. Khi Tiến đi xe vào không có bảng cấm, không có cây ngăn mà sau khi sự việc xảy ra thì mới đưa cây ngăn lại.

Lúc Tiến báo với ông Hàn vì Tiến nghe ông Hùng nói là bảo vệ thì nói lại như thế chứ không biết họ có phải bảo vệ hay không như kết luận điều tra nêu.

Ở hiện trường ngay khi xảy ra va chạm không có bất ký cây cao su nào hư hỏng hay gãy như kết luận điều tra. Công an huyện Xuyên Mộc không thực nghiệm điều tra, không khám nghiệm hiện trường và không lập biên bản quả tang và không biết gì về vụ việc nhưng lại kết luận dựa trên lời khai là chưa có căn cứ, và chưa bảo đảm theo đúng trình tự tố tụng hình sự.

Không có căn cứ nào chứng minh ông Đạt, Hùng khai đúng nhưng kết luận điều tra khẳng định lời khai 2 ông này là chính xác. Như vậy là trái quy định về luật tố tụng về lời khai, chứng cứ khi buộc tội.

Nếu nói ông Hùng, Đạt không đánh Tiến sao Tiến phải uống thuốc, Tiến khám bệnh và có hóa đơn uống thuốc, khám bệnh, chụp X-Quang Tiến cung cấp cho Công an huyện Xuyên Mộc.

Việc Công ty Lâm Nghiệp MTV BRVT cung cấp cho Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Xuyên Mộc 2 cái áo bảo vệ là không đúng sự thật khách quan vụ án, vì đây là không phải chứng cứ thu thập được tại buổi xảy ra ẩu đã mà mãi sau này công ty tự đưa lên, ai dám chắc đây là chiếc áo ông Hùng, Đạt mặc vì Tiến không thấy họ mặc chiếc áo, Tiến chưa thấy nhận dạng chiếc áo bao giờ. Lịch làm việc (lịch trực) sau này công ty tự cung cấp cho cơ quan điều tra thì cũng khó xem xét chấp nhận theo như quy định về thu thập chứng cứ. Vì các chứng cứ này chưa được giám định chữ ký, chữ viết và thời gian viết, thời gian ký...có lùi lại hay không?

Tiến chưa bao giờ thấy người nhà đến thì chỉ tay vào ông Hùng kêu Đặng Sinh đánh bao giờ, Tiến khai nhiều lần tại cơ quan điều tra nhưng kết luận điều tra vẫn cho rằng Tiến chỉ đạo Đặng Sinh đánh ông Hùng là sai sự thật, không đúng sự thật.

Tiến không gọi gia đình đến đánh ông Hùng và ông Đạt như bản kết luận điều tra, điều này rõ ràng có Thành cháu Tiến biết là Tiến gọi kêu Công an xã tới nhưng Kết luận điều tra lại cho là Tiến kêu người nhà đến.

Tiến không yêu cầu ông Hùng bồi thường, như Tiến đã khai là Tiến cũng bị uống thuốc bị đau nhức do ông Hùng, Đạt đánh nhưng thấy chỉ bầm dập vết thương không nặng nên không yêu cầu bồi thường nhưng kết luận điều tra lại kết luận Tiến yêu cầu bồi thường hết sức vô lý.

Hành vi của Tiến không cấu thành tội phạm, lỗi xo xát một phần lớn cho ông Phan Việt Hùng và ông Đạt đánh bắt, giữ trái pháp luật Tiến trước, không có bảng cấm đi vào đường cao su. Tiến không cầm hung khí, không gây bất kỳ thương tích nào cho ông Hùng, ông Đạt, Tiến không điện thoại cho ông Sinh kêu ông Sinh cầm cây đánh người, Tiến chỉ đánh tay không và không gây thương tích gì cho ông Hùng, vết thương ông Hùng là do Đặng Sinh cầm cây gây nên. Hành vi ông Tiến là do bị kích động, do lỗi trái pháp luật của ông Hùng, Đạt.

Từ các căn cứ trên tôi yêu cầu tuyên hành vi bị cáo Tiến không cấu thành tội phạm, không đồng phạm của tội cố ý gây thương tích như Cáo trạng truy tố Tiến.

Nội dung bào chữa cho bị cáo Sinh:

Đặng Sinh phạm tội nhưng do bộc phát, không có bàn bạc từ trước, chỉ nghe nói Tiến bị đánh nên sẵn đang làm quán thì lấy cây chạy ra xem. Khi nghe Tiến bị đánh thì bức xúc mà đánh Hùng, Đạt mà thôi.

Sinh có nhiều tình tiết giảm nhẹ kính mong HĐXX cho Sinh được hưởng án treo.

Điều 46. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

Tại Điều 47 quy định về  Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật như sau:

“Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.”

Ngoài ra, tại khoản 2, điều 46 Bộ luật Hình sự quy định:

“Khi quyết định hình phạt, Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.”

Quy định này được hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2000 của HĐTP TANDTC quy định tại khoản 5, điểm c quy định các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ như như:

“- Người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt (ông Hùng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt).

- Gia đình bị cáo khắc phục, bồi thường.”

- Căn cứ Điều 60 quy định về Án treo như sau:

“Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.

Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.”

- Căn cứ theo quy đinh tại  Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn, chỉ cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì;
b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng;

c) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên;
d) Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm…

Ngoài ra, Bị cáo có cha tham gia quân đội, gia đình khó khăn nuôi nhiều con nhỏ, là lao động chính....

Căn cứ vào các quy định trên, tôi kính mong HĐXX cho bị cáo Đặng Sinh được hưởng án treo với thời gian thử thách ngắn nhất để bảo đảm phù hợp với quy định pháp luật.

Xin chân thành cảm ơn hội đồng xét xử và chấp nhận nội dung bào chữa của tôi.

Trân trọng cảm ơn.

Ngày 27/9/2017

LS TRẦN MINH HÙNG

 Bài bào chữa này của LS TRẦN MINH HÙNG giúp cho 2 bị cáo được hưởng án treo.

Thế Nào Là Đồng Phạm

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

căn cứ khách quan gồm căn cứ vào số lượng người tham gia trong vụ án, căn cứ vào tính liên kết về hành vi cùng thực hiện một tội phạm, căn cứ vào hậu của do vụ án đồng phạm gây ra.

- Căn cứ và số lượng người trong vụ án: Điều 20 Bộ luật Hình sự quy định trong vụ án đồng phạm phải có từ hai người trở lên, những người này đều phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ vào tính liên kết về hành vi: Những người trong vụ án đồng phạm phải cùng nhau thực hiện một tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên kết chặt chẽ với hành vi của người đồng phạm kia. Hành vi của những người đồng phạm phải hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một tội phạm thuận lợi, nói cách khác hành vi của đồng phạm này là tiền đề cho hành vi của đồng phạm kia. Hành vi của tất cả những người trong vụ án đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại chung của tội phạm. 

- Căn cứ vào hậu quả tác hại: Hậu quả tác hại do tội phạm gây ra trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra. Hành vi của mỗi người trong vụ án đề là nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy, mặc dù có người trực tiếp, người gián tiếp gây ra hậu quả tác hại. Đây là đặc điểm về quan hệ nhân quả trong vụ án đồng phạm.

Thứ hai: Căn cứ chủ quan. Tất cả những người trong vụ án đồng phạm phải có hình thức lỗi cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Tất cả họ đều thấy rõ hành vi của toàn bộ những người trong vụ án đềy nguy hiểm cho xã hội. Mỗi người đồng phạm đều thấy trước hành vi của mình và hành vi của người đồng phạm khác trong vụ án đồng phạm là nguy hiểm, thấy trước hành vi của tất cả những người đòng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại. Vụ án có yếu tố đồng phạm khác vụ án thông thường do một người thực hiện ở những điểm sau đây:

- Vụ án có yếu tố đồng phạm có hai người trở lên, còn vụ án khác chỉ có một người thực hiện.

- Thông thường vụ án đồng phạm có tính chất, mức độ ngy hiểm hơn vụ án do một người thực hiện.

- Vụ án đồng phạm có hình thức lõi cố ý, còn vụ án do một người thực hiện có thể cố ý hoặc vô ý.

- Hành vi của những người trong vụ án đồng phạm có sự liên kết chặt chẽ để cùng thực hiện một tội phạm, còn hành vi của người phạm tội đơn lẻ không liên kết với ai. 

- Hậu quả tác hại trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra, hậu quả tác hại trong vụ án do một người thực hiện là hậu quả riêng do chính hành vi của người đó gây ra.

Có thể lấy ví dụ để phân biệt hai trường hợp mà bạn thắc mắc như sau: Hai người A và B cùng thực hiện một hành vi đó là trộm cắp tài sản nhưng sẽ có hai trường hợp sau: 

Trường hợp 1 nếu hai người này có sự chuẩn bị trước, bàn bạc thảo luận với nhau về thời gian, địa điểm, phương thức, cách thức... thực hiện tội phạm thì hai người A và B trong trường hợp này là đồng phạm. 

Trường hợp 2 là A và B không hứa hẹn, không có sự chuẩn bị trước mà cùng trộm đồ của gia đình nào đó thì hành vi của A và B trong trường hợp này không được coi là đồng phạm. Trong trường hợp này A và B sẽ bị truy tố độc lập về tội trộm cắp tài sản. Vì thế có thể phân biệt trường hợp này với đồng phạm với những lí do sau:

- Với loại tội ở trường hợp 2 thì tội phạm không có mốt liên hệ với nhau, không cùng nhau vạch ra kế hoạch, cách thức và phân công nhiệm vụ rõ ràng trong vụ án...

- Với đồng phạm thì hoàn toàn ngược lại với trường hợp 1 trên. Các đối tượng trong đồng phạm thì có mối quan hệ gắn bó, liên kết với nhau. Trước khi hành động thì các đối tượng này đã vạch sẵn kế hoạch cho từng người, từng giai đoạn thực hiện....

Hiện nay theo quy định của Bộ luật hình sự thì: 

"Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”

Theo đó đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thực hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia, có sự kết cấu, liên kết chặt chẽ giữa những đối tượng đó.

Có hai loại đồng phạm: là đồng phạm giản đơn và đồng phạm có tổ chức

- Đồng phạm giản đơn: là tất cả những người cùng thực hiện một tội phạm đều là người thực hành

- Đồng phạm có tổ chức là đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Trong vụ đồng phạm tùy vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ vai trò khác nhau: người tổ chức, người xúi giục, người thực hành, người giúp sức

+ Phạm tội có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Đây còn là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu

+  Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm là trực tiếp có hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém nạn nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp nhận hối lộ v.v… Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên tội phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiên tội phạm. Dù là đồng phạm giản đơn hay  phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có người thực hành. Nếu không có người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện;

+Người xúi dục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm chỉ được coi là người đồng phạm trong vụ án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vì có người khác xúi dục nên họ mới nảy sinh ý định tội phạm. Nếu việc xúi dục không liên quan trực tiếp đến hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức). Tuy nhiên, nếu xúi dục trẻ em dưới 14 tuổi phạm tội, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi dục được coi là hành vi thực hành thông qua hành vi của người không chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người không phải chịu trách nhiệm hình sự trở thành công cụ để người xúi dục thực hiện tội phạm. Nếu xúi dục trẻ em từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tội phạm thì người xúi dục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “xúi dục người chưa thành niên tội phạm” 

+  Người giúp sức: là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong 1 vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm cũng gặp khó khăn. Ví dụ: H hứa với T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T trộm cắp được. Có sự hứa hẹn của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội vì đã có nơi tiêu thụ tài sản trộm cắp được.

Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn, cung cấp phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm, hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xóa dấu vết, hứa tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.

Khoản 2 Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 có quy định về người xúi giục như sau:

"Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.”

Đặc điểm của người xúi giục là tác động đến tư tưởng và ý chí của người khác, khiến người này phạm tội. Người xúi giục có thể là người đã nghĩ ra việc phạm tội và đã thúc đẩy cho tội phạm có được thực hiện thông qua người khác. Do vậy, có thể gọi người xúi giục là tác giả tinh thần của tội phạm. Nhưng người xúi giục cũng có thể chỉ có tác động thúc đẩy người khác thực hiện ý định phạm tội đã có. Người xúi giục cũng có thể cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm nhưng cũng có thể không. Sự xúi giục có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như kích động, lôi kéo, cưỡng ép, dụ dỗ, lừa phỉnh. Trong vụ án cụ thể, việc nghiên cứu các thủ đoạn của người xúi giục là cần thiết, một mặt để xác định là chính những biện pháp ấy đã tác động đến người bị xúi giục, đưa người này đến chỗ phạm tội. Mặt khác cũng để thấy là người bị xúi giục, tuy có bị thúc đẩy nhưng đã tự ý mình phạm tội.

Hành vi xúi giục phải trực tiếp, nghĩa là kẻ xúi giục phải nhằm vào một hoặc một số người nhất định. Việc kêu gọi, hô hào mà không hướng tới những người xác định thì không phải là hành vi xúi giục.

Hành vi xúi giục phải cụ thể, nghĩa là phải nhằm gây ra việc thực hiện tội phạm nhất định. Việc truyền bá, phổ biến, gieo rắc những tư tưởng xấu cho một người hoặc một số người và khiến những người này đi vào con đường phạm tội cũng không phải là hành vi xúi giục trong đồng phạm mà chỉ có thể cấu thành tội độc lập khác như tội dụ dỗ, ép buộc… người chưa thành niên phạm tội (Điều 252 Bộ luật hình sự).

Về mặt chủ quan, cần xác định người xúi giục cần có ý định rõ ràng thúc đẩy người phạm tội. Những người có lời nói hoặc việc làm có thể gây ảnh hưởng đến việc phạm tội của người khác nhưng không có ý định thúc đẩy người này phạm tội thì cũng không phải là người xúi giục.

Hành vi xúi giục có mức độ nghiêm trọng khác nhau, tùy bản chất của người xúi giục và người bị xúi giục cũng như tùy mối quan hệ giữa họ với nhau. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tôn giáo, tín ngưỡng, sự nhẹ dạ của những người chưa thành niên để thúc đẩy họ phạm tội là những trường hợp nghiêm trọng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự thì Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm. Ví dụ: A cắt khoá vào nhà kho lấy trộm một chiếc ti vi, B nhìn thấy, đợi A bê ti vi ra ngoài sau đó lẻn vào nhà kho lấy trộm một chiếc quạt bàn và một số phụ tùng xe máy. khi ra khỏi kho được 200 m thì cả A và B đều bị bảo vệ cơ quan phát hiện bắt giữ. Tuy cả A và B đều thực hiện tội trộm cắp tài sản nhưng không cùng thực hiện, nên không coi trường hợp tội phạm của A và B là đồng phạm.

 Chế định đồng phạm quy định trong Bộ luật hình sự có hai loại mà theo khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp (phạm tội có tổ chức).

Đồng phạm giản đơn là trường hợp tất cả những người cùng thực hiện một tội phạm đều là người thực hành. Ví dụ: A rủ B và C vào trong kho của Công ty H lấy trộm một máy bơm nước.

Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự)

Phạm tội có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.

Phạm tội có tổ chức khác với tổ chức tội phạm. Hình luật xã hội chủ nghĩa không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một tổ chức (pháp nhân), vì vậy, không có khái niệm tổ chức tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử vẫn có thể có một tập thể một tổ chức tội phạm, tức là có sự thống nhất từ người đứng đầu đến các nhân viên thực hiện một tội phạm, nhưng khi truy cứu trách nhiệm hình sự thì chỉ truy cứu từng các nhân trong tổ chức đó. Ví dụ: Trong vụ án Tân Trường Sanh, có một đơn vị là Phòng chống buôn lậu thuộc Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức nhận hối lộ. Việc nhận hối lộ ở đây không phải do từng cá nhân thực hiện mà là do phòng thực hiện, người đưa hối lộ cũng không đưa cho một cá nhân nào mà đưa chung cho cả Phòng, Phòng cử người nhận tiền hối lộ và chia cho tất cả những người khác theo phương thức người có chức vụ nhiều hơn nhân viên, người có thời gian công tác ở Phòng lâu hơn được chia nhiều hơn. Tuy Phòng chống buôn lậu không phải là tổ chức chuyên tội phạm, nhưng nếu xét riêng về hành vi nhận hối lộ thì họ là tổ chức nhận hối lộ.

Hiện nay, cũng có ý kiến cho rằng, Bộ luật hình sự nước ta cần quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với “nhóm tội phạm có tổ chức” để trừng trị một số đối tượng thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức để thực hiện một số tội đặc biệt nguy hiểm như: khủng bố, giết người rửa tiền, buôn bán người, sản xuất, mua bán trái phép chất ma tuý… Tuy nhiên, theo tôi, cần cân nhắc kỹ vấn đề này, vì Bộ luật hình sự đã quy định các hành vi phạm tội khủng bố, rửa tiền, buôn bán người, sản xuất và mua bán trái phép chất ma tuý và một số tội phạm khác. Đối với các tội phạm này, nếu là phạm tội có tổ chức thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn. Nếu quy định thêm một hành vi phạm tội mới mà hành vi phạm tội đó đã được quy định tại các điều luật thì áp dụng thế nào ? Khái niệm tội phạm theo Điều 8 Bộ luật hình sự đã nêu rất rõ, còn phạm tội có tổ chức Điều 20 Bộ luật hình sự cũng nêu cụ thể đã bao hàm cả nhóm phạm tội có tổ chức rồi. Giả thiết, có một nhóm được thành lập ra để thực hiện một hoặc một số tội phạm nào đó nhưng vì lý do khách quan mà chưa thực hiện được thì đã thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt và tuỳ trường hợp mà bị xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn có chế định “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” (Điều 19). Vậy “nhóm tội phạm có tổ chức” chưa thực hiện hành vi phạm tội mà tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” thì giải quyết thế nào, đó là chưa kể đến việc xác định vai trò của từng người trong “nhóm tội phạm có tổ chức đó”.

Phạm tội có tổ chức khác với người tổ chức trong đồng phạm, vì người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu chỉ huy việc thực hiện tội phạm, nói lên vai trò nhiệm vụ của một người trong một vụ án có đồng phạm, còn  phạm tội có tổ chức lại nói lên quy mô của tính chất, mức độ nguy hiểm mà tội phạm đó đã xảy ra. Tất nhiên trong phạm tội có tổ chức có người tổ chức (người cầm đầu),

Phạm tội có tổ chức cũng khác với hành vi tổ chức trong một số tội phạm như tổ chức tảo hôn (Điều 148) tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 197), tổ chức đánh bạc (Điều 249), tổ chức người khác trốn đi nước người hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275). Phạm tội có tổ chức là nói đến quy mô, tính chất của tội phạm, còn khái niệm "tổ chức" trong các tội phạm cụ thể nêu ở trên là hành vi phạm tội. Phạm tội có tổ chức, nhất thiết phải có từ hai người trở lên, là một hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ, có sự phân công trách nhiệm...còn tổ chức đánh bạc, tổ chức tảo hôn, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý... có thể chỉ có một người cũng có thể thực hiện được hành vi phạm tội tổ chức...

Trong vụ án đồng phạm có tổ chức tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Chỉ trong trường hợp  phạm tội có tổ chức mới có người tổ chức. Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi xướng việc tội phạm; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm...

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm là trực tiếp có hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém nạn nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp nhận hối lộ v.v... Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên tội phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiên tội phạm. Dù là đồng phạm giản đơn hay  phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có người thực hành. Nếu không có người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện; hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra và trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được xem xét theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự (chỉ chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác rõ ràng phụ thuộc vào hành vi của của người thực hành.

Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bao giờ người thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra, có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiên tội phạm, nhưng thực tế cũng không ít trường hợp người thực hành tự ý thực hiện những hành vi vượt quá yêu cầu của các đồng phạm khác đặt ra, Khoa học luật hình sự gọi là hành thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm. Luật hình sự của nhiều nước ghi ró chế định “thái quá’ của người thực hành trong Bộ luật hình sự hoặc trong các văn bản luật hình sự. ở nước ta chế định này chưa được ghi trong Bộ luật hình sự, nhưng về lý luận cũng như thực tiến xét xử đều thừa nhận chế định này khi cần phải xem xét đến trách nhiệm hình sự  của người thực hành cũng như những người đồng phạm khác trong một vụ án có đồng phạm. Hiện nay, đa số ý kiến cho rằng khi Bộ luật hình sự của nước ta được sửa đổi bổ sung một cách căn bản, cần quy định chế định “hành vi thái quá của người thực hành” cùng với chế định đồng phạm đã được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự.

Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã khẳng định, hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm và hậu quả do hành vi thái quá đó gây ra chỉ người thực hành phải chịu trách nhiệm hình sự còn những người đồng phạm khác không phải chịu về sự “thái quá” đó. Như vây, khi nghiên cứu tình trạng loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác đối với hành vi thái quá của người thực hành chúng ta chỉ có thể nghiên cứu nội dung của sự “thái quá” mà người thực hành đã gây ra, từ đó xác định trách nhiệm hình sự của người thực hành về hành vi thái quá đó mà loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.

Hành vi thái quá của người thực hành là trường hợp người thực hành tự ý thực hiện hành vi phạm tội mà những người đồng phạm khác không mong muốn. Hay nói cách khác là hành vi phạm tội của người thực hành mà những người đồng phạm khác không có ý định thực hiện. Ví dụ: Trần Quang A, Nguyễn Văn C, Bùi Quốc T, Bùi Quốc L vì thua bạc nên Bùi Quốc T bàn bạc với đồng bọn về nhà mình doạ mẹ của T để buộc mẹ của T phải đưa chìa khoá tủ mở lấy tiền tiếp tục đi đánh bạc, cả bọn đồng ý. Vì T và L là anh em và là con của bà M, nên chúng giao cho A và C trực tiếp thực hiện. Trước khi đi cả bon thống nhất chỉ doạ bà M để bà đưa chìa khoá tủ chứ không được làm bất cứ điều gì gây đau đớn cho bà. T và L còn nói, nếu má tao có sao chúng mày đừng có trách. Sau khi đã bàn bạc thống nhất, vào lúc nửa đêm A và C lẻn vào nhà bà M, lợi dụng lúc bà M đang ngủ, A dùng tay chẹn vào cổ bà M, còn C doạ : “chìa khoá tủ để ở đâu không đưa đây chúng tao giết !”. Bị tấn công bất ngờ, bà M không kịp trở tay buộc phải đưa chùm chìa khoá cho C. Trong lúc C đang mở tủ để lục soát tìm tiền, thì A dùng một quả chanh nhét vào miệng bà M và lấy khăn bịt miệng bà M lại, nhưng vì bà M giãy giụa làm quả chanh trong miệng bật ra, đồng thời bà M kêu cứu. Sợ bị lộ, A vật bà M xuống ngồi lên bụng bà, rồi dùng tay bóp cổ bà cho đến khi bà M không còn giãy giụa nữa A mới bỏ tay ra. C thấy A hành động như vậy hỏi, sao mày làm thế,  thì A trả lời, bà ấy chỉ xỉu thôi không chết đâu mà sợ. Cùng lúc này C đã lục tủ lấy được bọc tiền của bà M rồi cả hai bỏ chạy ra điểm hẹn với T và L. Thấy A và C đến T hỏi ngay má tao có sao không, cả A và C đều trả lời không việc gì hết. T bào L về nhà xem tình hình còn T, A và C tiếp tục đi đánh bạc. Khi L về nhà thấy má mình bất động đã đưa đi bệnh viện cấp cứu, nhưng bà M đã chết. Trường hợp này, ngay từ khi bàn bạc phạm tội, chúng thống nhất chỉ làm cho bà M sợ để bà đưa chìa khoá tủ, nhưng trong khi thực hiện tội phạm A đã có hành vi thái quá làm cho bà M bị chết, vì vậy chỉ có A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, cong C, T, L chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản của công dân.

Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi thái quá của người thực hành không đơn giản mà nó được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau như: lúc đầu chỉ bàn cướp nhưng khi thực hiện lại giết người; lúc đầu chỉ bàn đánh cho một trận nhưng khi thực hiện lại lấy tài sản của người bị đánh; lúc đầu bàn bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng khi thực hiện việc bắt cóc lại hiếp dâm; lúc đầu chỉ bàn trộm trâu nhưng khi thực hiện lại trộm cả lợn và gà v.v...Chính vì tội phạm xảy ra muôn hình muôn vẻ nên khoa học luật hình sự chia hành vi thái quá ra làm hai loại chính: Thái quá về chất lượng của hành vi và thái quá về số lượng của hành vi.

- Thái quá về chất lượng của hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi thái quá đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, nếu hành vi thái quá cấu thành tội phạm thì tội phạm đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Trần Văn Tuấn bàn với Đặng Văn Hùng và Phạm Quốc Hưng chặn đường để cướp của, nhưng trước khi đi, Hùng ở nhà vì phải đưa con đi bệnh viên, nên chỉ có Tuấn và Hưng thực hiện. Khi phát hiện thấy người đi xe máy chạy qua, Hưng và Tuấn ra chặn lại để cướp tài sản thì phát hiện người đi xe máy là một phụ nữ, nên cả hai tên nảy ý định hiếp dâm và chúng đã thực hiện hành vi hiếp dâm, đồng thời lấy của nạn nhân sợi dây chuyền. Hành động xong, Hưng và Tuấn về kể cho Hùng nghe đã cướp được dây chuyền vàng, hôm sau Hùng mang dây chuyền đi bán thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong quá trình điều tra, Hùng mới biết ngoài hành vi cướp tài sản thì Hưng và Tuấn còn hiếp dâm người bị hại. Hành vi thái quá của Hưng và Tuấn là hành vi thái quá về chất lượng vì tội hiếp dâm không cùng tính chất với tội cướp tài sản.  Việc xác định thái quá về chất lượng không mấy khó khăn và cũng chính vì thế mà xác định trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác không phải là người thực hành cũng dễ dàng hơn so với trường hợp thái quá về số lượng hành vi.

- Thái quá về số lượng hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi thái quá, mà hành vi đó cùng tính chất với hành vi phạm tội mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử loại thái quá này rất khó xác định cho nên không ít trường hợp rõ ràng là người thực hành trong vụ án có đồng phạm có hành vi thái quá nhưng những người đồng phạm khác vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá đó. Do đó để phân biệt hành vi đã thái quá hay chưa cần phải nghiên cứu nó ở những mức độ khác nhau.

Trường hợp thứ nhất:

Hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm đã cấu thành một tội phạm khác và tội phạm này cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Do có thù tức với Đặng Văn Hoà, nên Trần Tuấn Anh, Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Hồng Cang bàn bạc tìm Hoà để đánh cho Hoà một trận. Khi gặp Hoà, cả ba tên lao vào dùng chân tay đấm đá cho tới khi Hoà ngã gục. Thấy vậy, Bảo và Cang nói: “thôi thế là đủ đừng đánh nữa không thì nó chết mất”, rồi Bảo và Cang bỏ đi. Nhưng Trần Tuấn Anh vẫn ở lại tiếp tục dùng gót chân thúc mạnh vào hai mạng sườn và dận lên ngực Hoà cho tới khi Hoà bất tỉnh mới thôi. Hậu quả là Hoà bị chết. Kết quả giám định kết luận Hoà bị chết là do bị vỡ lá lách, chảy máu trong, phổi xung huyết mất máu cấp. Với hành vi phạm tội như trên Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều kết án Trần Tuấn Anh, Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Hồng Cang về tội giết người. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và Hội đồng giám đốc thẩm đã quyết định: kết án Trần Tuấn Anh về tội giết người còn Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Hồng Cang không bị kết án về tội giết người mà chỉ bị kết án về tội cố ý gây thương tích vì xác định hành vi của Trần Tuấn Anh là hành vi thái quá nên Bảo và Cang không phải chịu về hậu quả do hành vi thái quá của Tuấn Anh gây ra. Trong vụ án này, hành vi thái quá của Trần Tuấn Anh đã cấu thành tội phạm khác (tội giết người) nhưng hành vi này cùng tính chất với hành vi của những người đồng phạm khác (cùng đấm đá, cùng xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người ).

Trường hợp thứ hai:

Hành vi thái quá của người thực hành chưa cấu thành tội phạm khác mà nó vẫn là tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Lê Khắc Thâu là thủ kho, Trần Thị Mai là kế toán và Vũ Văn Ban là bảo vệ Công ty kinh doanh tổng hợp tỉnh bàn với nhau về việc vào lấy trộm 100 Kg mì chính (bột ngọt) ở kho do Thâu quản lý đem bán lấy tiền chia nhau. Thâu và Ban được phân công trực tiếp vào kho lấy mì chính còn Mai có nhiệm vụ sửa chữa sổ sách để hợp thức hoá việc thiếu 100 Kg mì chính. Nhưng trước khi vào kho lấy mì chính Thâu bàn với Ban lấy thêm 50 Kg để chia nhau mà không cho Mai biết. Trường hợp phạm tội này, rõ ràng Ban và Thâu có hành vi thái quá, nhưng hành vi thái quá này không cấu thành một tội phạm khác riêng biệt, cả Mai, Thâu và Ban đều tội phạm tham ô tài sản, nhưng tính chất và mức đội tội phạm của Ban và Thâu có khác Mai; trách nhiệm hình sự của Mai chỉ phải chịu cùng với Thâu và Ban về 100 Kg mì chính, còn Ban và Thâu phải chịu trách nhiệm hình sự về 150 Kg mì chính.

Sự phân biệt hai loại hành vi thái quá như trên chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu khoa học, còn thực tiễn xét xử dù là thái quá về chất lượng hay về số lượng của hành vi thì những người đồng phạm khác đều không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá của người thực hành.

Đối với các vụ án phạm tội có tổ chức, khi xác định những người đồng phạm khác có phải chịu trách nhiệm về hành vi thái quá của người thực hành hay không cũng có nhiều phức tạp. Bởi vì trong quá trình thực hiện tội phạm, người thực hành có nhiều hành vi nhằm đạt được mục đích mà những người đồng phạm khác mong muốn, trong đó có hành vi được những người đồng phạm khác biết trước và đồng tình, nhưng cũng có những hành vi không được những người đồng phạm khác biết trước, không mong muốn hậu quả của những hành vi đó xảy ra, nhưng có thái độ bỏ mặc, muốn ra sao thì ra. Vậy vấn đề trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác được xác định như thế nào khi người thực hành có những hành vi gây ra hậu quả mà mình không biết, không mong muốn ? Ví dụ: A, B và C chỉ bàn bạc với nhau về việc đến uy hiếp chủ nhà để cướp tài sản. Khi đi chúng có mang theo dao găm, dây trói, giẻ và chanh để bịt miệng. Tới nơi, A và B trói chủ nhà, nhét chanh vào miệng chủ nhà, lấy giẻ buộc lại và giao cho C canh giữ. Thấy giẻ bịt miệng chủ nhà tuột ra, C sợ chủ nhà kêu cứu, nên đã bóp cổ làm chủ nhà bị chết ngạt. Về trường hợp này, có ý kiến cho rằng hành vi bóp cổ chủ nhà của C là hành vi thái quá nên C phạm giết người và cướp tải sản còn A và B không chịu trách nhiệm về hành vi và hậu quả do hành vi thái quá của C nên chỉ phạm tội cướp tài sản. Tuy nhiên, xem xét một cách toàn diện thì thấy:  Tuy A, B và C không bàn bạc với nhau từ trước về việc giết người, nhưng A và B bỏ mặc cho C hành động, không quan tâm đến hậu quả do hành vi của C gây ra miễn là cướp được tài sản; việc C bóp cổ chủ nhà cũng là nhằm cho A và B thực hiện trót lọt việc lấy tài sản mà cả A và B đều mong muốn. Do đó, cái chết của chủ nhà do C trực tiếp gây ra nhưng phải buộc cả A và B cùng phải chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi thái quá của người thực hành, về lý luận cũng như pháp luật của các nước trên thế giới còn có nhiều cách đánh giá khác nhau, nhưng qua thực tiễn xét xử ở nước ta cũng như một số nước thừa nhận: Nếu những người đồng phạm để cho người thực hành hoàn toàn tự do hành động nhằm đạt được mục đích của tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, thì hành mọi hành vi của người thực hành không được coi là hành vi thái quá và những người đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi của người thực hành gây ra. Tuy nhiên, khi xem xét hành vi của người thực hành được tự do hành đồng để đạt được mục đích mà các người đồng phạm khác đặt ra phải chú ý một điểm là: Hành vi đó phải là dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà tội phạm đó đã được những người đồng phạm khác bàn bạc thống nhất như trường hợp ví du trên hành vi bóp cổ chủ nhà của C cũng là hành vi vũ lực - dấu hiệu của tội cướp tài sản, thì những người đồng phạm khác mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi đó lại là dấu hiệu cấu thành một tội độc lập khác thì hành vi đó lại được coi là thái quá và những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp ví dụ trên, giả thiết C không bóp cổ chủ nhà chết mà lại hiếp dâm chủ nhà thì hành vi diếp dâm của C là hành vi thái quá và A, B không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm mà C thực hiện.

Việc để cho người thực hành tự do hành động, tức là người thực hành không bị ràng buộc bởi bất kỳ sự ràng buộc nào của những người đồng phạm khác. Nếu những người đồng phạm khác lại có hành vi ngăn cản hay hành động tích cực để ngăn chặn hậu quả, nhưng người thực hành vẫn cố tình thực hiện, thì hành vi của người thực hành dù có là dấu hiệu câú thành tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện thì những người này cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Trương Quang Tuấn, Vũ Minh Hùng và Hoàng Công Văn bàn bạc đến nhà cậu ruột của Văn để cướp. Văn không trực tiếp thực hiện mà giao cho Tuấn và Hùng thực hiện. Trước khi đi, Hoàng Công Văn dặn: chỉ được trói chủ nhà để uy hiếp lấy tài sản chứ không được gây án mạng. Vì sợ Tuấn và Hùng làm ẩu, Văn đã kiểm tra và giữ lại hai dao găm mà Tuấn và Hùng định mang theo. Trên đường đến nhà cậu của Văn để cướp, Hùng và Tuấn tự ý về nhà Hùng lấy một khẩu súng ngắn mà Hùng đã chuẩn bị từ trước, vì Hùng cho rằng không có vũ khí thì không thể làm gì được. Tới nơi, Hùng và Tuấn dùng súng uy hiếp bắt trói chủ nhà, rồi lục soát lấy tài sản. Trong khi đang lục soát thì chủ nhà tự cởi được trói, kêu cứu, Hùng đã dùng súng bắn chết chủ nhà. Trong trường hợp này hành vi của Hùng cũng là hành vi nhằm thực hiện tội cướp mà Văn đã bàn bạc từ trước, nhưng Văn đã có những hành động tích cực nhằm hạn chế ngăn chặn hậu quả nên Văn không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết do Hùng và Tuấn gây nên.

Thực tiễn xét xử cũng có những trường hợp nếu chỉ căn cứ vào hành động hoặc lời nói của những người đồng phạm khác (chủ mưu, tổ chức, xúi dục, giúp sức) thì thấy những người này có ý thức bỏ mặc hậu quả xảy ra do người thực hành thực hiện nên đã buộc những người này phải chịu trách nhiệm về hậu quả mà người thực hành gây ra, nhưng căn cứ vào nội dung hành động và lời nói của những người này thì họ không có ý thức bỏ mặc cho hậu quả do người thực hành gây ra. Ví dụ: Nguyễn Tiến N là đội phó đội điều tra Công an huyện Y và Tống Viết Q là điều tra viên được phân công điều tra vụ án mà Hà Văn T là người tiêu thụ tài sản do ngươì khác tội phạm mà có. Trong qúa trình điều tra, mặc dù có căn cứ đề xác định rằng T đã tiêu thụ 17 cái mày bơm bị trộm cắp chứ không phải chỉ có 4 cái như T thừa nhận, nên phải ra lệnh bắt giam T để tiếp tục làm rõ hành vi phạm tội của T. T được giam chung với một số phạm nhân trong đó có Bùi Xuân Ph là tên đã có nhiều tiền án tiền sự được các phạm nhân khác mệnh danh là “đầu gấu” trong buồng giam. Q đã nhiều lần lấy lời khai của T nhưng T một mực không nhận, N và Q nói với Ph phải đánh cho T một trận thì nó mới nhận. Để lấy lòng cán bộ điều tra và cũng vì sợ không đánh T thì sẽ không được yên nên Ph đã tổ chức cho các phạm nhân cùng buồng đánh đập T rát dã man làm cho T bị ngất xỉu phải đưa đi cấp cứu và bị chết. Khi xem xét trách nhiệm của Nguyễn Tiến N và Tống Viết Q có ý kiến cho rằng, mặc dù Q và N không có ý định tước đoạt tính mạng của T từ trước, nhưng đã có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra không có biện pháp ngăn chặn và việc Ph cùng các phạm nhân khác đánh chết T là do câu nói của Q và N: “đánh cho nó một trận để nó khai ra sự thật”. Do đó, N và Q phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người với vai trò xúi dục. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ nội dung lời nói của N và Q chúng ta thấy, nếu N và Q để mặc cho bọn Ph đánh chết anh T thì về thực tế không đạt được mục đích là làm cho T khai ra sự thật, còn về pháp lý nói đánh cho một trận để nó khai ra chứ không phải đánh cho một trận cho nó biết thế nào là tù tội, hoặc mày cứ đánh cho nó một trận muốn ra sao thì ra. Vì thế trong trường hợp này việc bọn Ph đánh quá tay làm anh T bị chết là ngoài mục đích của N và Q, và hành vi của Ph và đồng bọn là hành vi thái quá của người thực hành nên những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên hành vi của N và Q nói đánh cho nó một trận cũng tức là mong muốn cho T bị thương tích hoạc bị tổn hại đến sức khoẻ, nên hành vi của N và Q phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự vì thuộc trường hợp gây hậu quả chết người.

Tóm lại, vấn đề loại trứ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác (không phải là người thực hành) trong vụ án có đồng phạm, không chỉ có liên quan đến hành vi thái quá của người thực hành mà còn liên quan đến nhiều chế định khác như: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc tội phạm, vấn đề lỗi, các điều kiện của đồng phạm và phạm tội có tổ chức.v.v... nhưng hành vi thái quá của người thực hành lại liên quan trực tiếp đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm khác, nên có thể nói hành vi thái quá của người thực hành chính là điều kiện (căn cứ) để loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.

Người xúi dục là người kính động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm chỉ được coi là người đồng phạm trong vụ án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vị có người khác xúi dục nên họ mới nảy sinh ý định tội phạm. Nếu việc xúi dục không liên quan trực triếp đến hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức). Ví dụ: Lê Tiến D đi thăm đồng thấy hai tốp thanh niên đang đuổi đánh nhau, D liền hô: đánh bỏ mẹ chúng nó đi ! nhưng không nói ai đánh ai và cũng chỉ hô như vậy rồi thôi. Sau đó hai tốp thành niên vẫn đuổi đánh nhau dẫn đến một thanh niên bị đâm chết. Hành vi của D tuy có vẻ xúi dục người khác, nhưng khi D có hành vi xúi dục thì ý định tội phạm của hai tốp thanh niên đã có sẵn từ trước nên hành vi xúi dục của D không có ý nghĩa gì đến việc phạm tội của hai tốp thanh niên này, dù D có hô hay không hô câu "đánh bỏ mẹ nó đi" thì cũng không làm thay đổi ý định tội phạm của só thanh niên này, nên không thể coi D là người xúi dục được.

Người xúi dục là người phạm tội giấu mặt, dân gian thường gọi là người "ném đã giấu tay". Tuy nhiên, nếu xúi dục trẻ em dưới 14 tuổi phạm tội, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi dục được coi là hành vi thực hành thông qua hành vi của người không chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người không phải chịu trách nhiệm hình sự trở thành công cụ để người xúi dục thực hiện tội phạm. Nếu xúi dục trẻ em từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tội phạm thì người xúi dục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "xúi dục người chưa thành niên tội phạm" (điểm n khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự ).

Trong trường hợp người xúi dục lại là người tổ chức và cùng thực hiện tội phạm, thì họ trở thành người tổ chức và nếu xúi người chưa thành niên tội phạm thì họ còn phải chịu tình tiết tăng nặng "xúi dục người chưa thành niên tội phạm".

Hành vi xúi dục phải cụ thể, tức là người xúi dục phải nhằm vào tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể. Nếu chỉ có lời nói có tính chất thông báo hoặc gợi ý chung chung thì không phải là người xúi dục và không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm. Ví dụ: Nguyễn Quang T cùng ngồi uống nước với một số thanh niên. Trong lúc uống nước, T nói: "Tao vừa đi qua Cảng thấy hàng về nhiều lắm, đêm nay đứa nào bạo gan ra đó nhất định kiếm được". Trong số thanh niên ngồi uống nước có Trần Quốc P và Đặng Văn V là những tên đã có nhiều tiền án, tiền sự về tội trộm cắp, nghe T nói vậy, liền bàn nhau đến đêm ra Cảng trộm cắp hàng. Khi bị bắt, P và V khai vì do T nói ở ngoài Cảng hàng về nhiều nên chúng tôi mới bàn với nhau ra Cảng trộm cắp. Đúng là trong trường hợp này, T có nói  một câu như có vẻ xúi dục, nhưng câu nói của T không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc P và V trộm cắp. Mặt khác, T cũng không phải là người xúi dục P và V trộm cắp, cũng không được P và V hứa chia tiền hoặc tài sản nếu tộm cắp được.

Người giúp sức là người tạo điều những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng; nếu không có người giúp sức thì người thực hiện  tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: Phạm Thị H hứa với Trần Công T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T trộm cắp được. Do có sự hứa hện của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội vì T yên tâm là tài sản trộmh cắp được đã có T tiêu thụ.

Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn; cung cấp phương tiện tội phạm hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm; hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xoá dấu vết, hứa tiêu thụ tài sản do tội phạm mà có...

Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần thường được biểu hiện như: Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng lương cho người phạm tội, bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội phạm như: nói cho người phạm tội biết chủ nhà thường vắng nhà vào giờ nào để đến trộm cắp, nói cho người phạm tội biết người bị hai hay đi về đường nào để người phạm tội phục đánh...

Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi cung cấp phương tiện tội phạm như: cung cấp dao, súng, côn gỗ, xe máy, xe ô tô... để người phạm tội thực hiện tội phạm.

Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm.

Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm của người giúp sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với ngừơi tổ chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu. cầm đầu, chỉ huy mà chỉ có vai trò thứ yếu trong vu án đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như nhau thì người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người đồng phạm khác.

Bộ luật Hình sự 2015 có những sửa  đổi, bổ sung phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, chính trị xã hội, những quy định về đồng phạm được quy đinh tại Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015:
1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”
Về cơ bản quy định về đồng phạm của BLHS năm 2015 giữ nguyên so với quy định tại BLHS năm 1999, có một số sửa đổi, bổ sung như sau:
Thứ nhất: Điều 17 BLHS năm 2015 được quy định thành 04 khoản (BLHS năm 1999 là 03 khoản), khoản 2 của Điều 20 BLHS năm 1999 “2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.”
Được sửa đổi thành khoản 3 của BLHS năm 2015 kết cấu được thay đổi như sau:
“3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.”
Thứ hai: Khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 được quy định thành khoản 2 Điều 17 của BLHS năm 2015.
Thứ ba: Điều 17 BLHS năm 2015 bổ sung thêm khoản 4 “Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”
Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm. Giữa những người phạm tội đó có sự bàn bạc, thống nhất trước khi thực hiện tội phạm hoặc có sự tiếp nhận về mặt ý chí giữa những người phạm tội.
Chế định đồng phạm quy định trong Bộ luật hình sự có hai loại mà theo khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp (phạm tội có tổ chức).
Đồng phạm giản đơn là trường hợp tất cả những người cùng thực hiện một tội phạm đều là người thực hành.
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 2 Điều 17 Bộ luật hình sự) là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu và là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.
Khoản 3 Điều 17 BLHS năm 2015 xác định người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Căn cứ để xác định vụ án đồng phạm:
Thứ nhất: căn cứ khách quan gồm căn cứ vào số lượng người tham gia trong vụ án, căn cứ vào tính liên kết về hành vi cùng thực hiện một tội phạm, căn cứ vào hậu quả do vụ án đồng phạm gây ra.
- Căn cứ và số lượng người trong vụ án: Điều 17 BLHS năm 2015 quy định trong vụ án đồng phạm phải có từ hai người trở lên, những người này đều phải có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
- Căn cứ vào tính liên kết về hành vi: Những người trong vụ án đồng phạm phải cùng nhau thực hiện một tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên kết chặt chẽ với hành vi của người đồng phạm kia. Hành vi của những người đồng phạm phải hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một tội phạm thuận lợi, nói cách khác hành vi của đồng phạm này là tiền đề cho hành vi của đồng phạm kia. Hành vi của tất cả những người trong vụ án đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại chung của tội phạm. 
- Căn cứ vào hậu quả tác hại: Hậu quả tác hại do tội phạm gây ra trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra. Hành vi của mỗi người trong vụ án đều là nguyên nhân gây ra hậu quả chung ấy, mặc dù có người trực tiếp, người gián tiếp gây ra hậu quả tác hại. Đây là đặc điểm về quan hệ nhân quả trong vụ án đồng phạm.
Thứ hai: Căn cứ chủ quan. Tất cả những người trong vụ án đồng phạm phải có hình thức lỗi cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Tất cả họ đều thấy rõ hành vi của toàn bộ những người trong vụ án đều nguy hiểm cho xã hội. Mỗi người đồng phạm đều thấy trước hành vi của mình và hành vi của người đồng phạm khác trong vụ án đồng phạm là nguy hiểm, thấy trước hành vi của tất cả những người đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại. Vụ án có yếu tố đồng phạm khác vụ án thông thường do một người thực hiện ở những điểm sau đây:
- Vụ án có yếu tố đồng phạm có hai người trở lên, còn vụ án khác chỉ có một người thực hiện.
- Thông thường vụ án đồng phạm có tính chất, mức độ ngy hiểm hơn vụ án do một người thực hiện.
- Vụ án đồng phạm có hình thức lỗi cố ý, còn vụ án do một người thực hiện có thể cố ý hoặc vô ý.
- Hành vi của những người trong vụ án đồng phạm có sự liên kết chặt chẽ để cùng thực hiện một tội phạm, còn hành vi của người phạm tội đơn lẻ không liên kết với ai. 
- Hậu quả tác hại trong vụ án đồng phạm là hậu quả chung do toàn bộ những người đồng phạm gây ra, hậu quả tác hại trong vụ án do một người thực hiện là hậu quả riêng do chính hành vi của người đó gây ra.
Qua thực tiễn nghiên cứu chế định đồng phạm theo quy định BLHS năm 2015, cho thấy đồng phạm là việc những người phạm tội có sự bàn bạc thống nhất trước khi thực hiện tội phạm hoặc có sự tiếp nhận về mặt ý chí tức là sự ăn ý, hiểu ý giữa những người phạm tội mặc dù không có sự bàn bạc, thống nhất trước khi thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên không phải mọi trường hợp có sự tiếp nhận về mặt ý chí đều là đồng phạm mà cần lưu ý một số vấn đề như sau:
Thứ nhất:  Theo Từ điển tiếng Việt thì “Ý chí là cái hình thành từ trong ý thức mà ra”, như vậy, sự tiếp nhận về mặt ý chí là sự ăn ý, hiểu ý giữa những người phạm tội trong việc thực hiện tội phạm mọi sự tác động về mặt khách quan dẫn đến hình thành việc tiếp nhận ý chí trong đồng phạm thì đó không phải là sự tiếp nhận về mặt ý chí.
Ví dụ: Ngày 13/5/2015 Nguyễn Văn A điều khiển xe máy rủ Đào Hoàng B lên thành phố X chơi, khi đến ngõ số 3, đường M, thành phố X thì A dừng xe máy lại và bảo B đứng chờ một lát để sang bên kia đường mua nước, B ngồi trên xe máy đứng chờ A. Lát sau, A phá khóa lấy 01 chiếc xe máy dựng bên đường chạy lại chỗ B đang đứng chờ nói “Mày đi theo tao?”, B biết là A đã ăn trộm chiếc xe máy nên đi theo B. Sau đó A và B bị bắt, chiếc xe máy được định giá là 5.000.000 đồng. Trong trường hợp trên có ý kiến cho rằng B đã có sự tiếp nhận về mặt ý chí nên B là đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.
Trong trường hợp này, hành vi của B có sự tiếp nhận về mặt ý chí tuy nhiên sự tiếp nhận về mặt ý chí của B không phải hình thành từ trong ý thức mà có sự tác động về mặt khách quan mới hình thành, tức là khi A sang bên đường B không biết là A đi trộm cắp chiếc xe, B chỉ hiểu A trộm cắp tài sản và đi theo khi A nói “Mày đi theo tao?”. Như vậy, việc hình thành sự tiếp nhận về mặt ý chí của B là có sự tác động về mặt khách quan nên B không đồng phạm với A trong tội trộm cắp tài sản.
Thứ hai: Thời điểm hình thành việc tiếp nhận ý chí: Việc tiếp nhận về mặt ý chí nếu được hình thành sau khi hành vi phạm tội của người thực hành đã hoàn thành không phải là đồng phạm.
Trong trường hợp trên, hành vi trộm cắp tài sản của A đã hoàn thành kể từ thời điểm dịch chuyển tài sản một cách bất hợp pháp, sau khi hành vi trộm cắp tài sản đã hoàn thành của A thì B mới có sự tiếp nhận về mặt ý chí. Như vậy, việc tiếp nhận về mặt ý chí của B diễn ra sau khi tội phạm của A đã hoàn thành nên B không phải là đồng phạm của tội trộm cắp tài sản được.
Các quy định của BLHS năm 2015 về đồng phạm mang tính kế thừa những quy định của BLHS năm 1999, tuy nhiên việc vận dụng đúng khái niệm đồng phạm trong thực tiễn tố tụng để giải quyết các vụ án là rất quan trọng./.

Luật Sư Giỏi Về Hình Sự Tại Tphcm

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự là một phần phạm vi công việc của Luật sư tranh tụng hình sự của Luật Sư Gia Đình. Đối với phạm vi công việc này Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự chỉ tham gia tố tụng nhằm bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự và các trường hợp khác liên quan đến tố tụng hình sự được giải quyết tại tòa án khi hồ sơ đã chuyển sang từ Viện kiểm sát. Nội dung dịch vụ của Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của chúng tôi cho bị can, bị cáo thực hiện như sau:

 

+  Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự vấn pháp luật hình sự, luật tố tụng hình sự và các vấn đề liên quan trực tiếp tại văn phòng trước khi thực hiện dịch vụ tố tụng. 

+  Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự tư vấn các quy định pháp luật hình sự, sau khi kết nối với luật sư, quý khách sẽ được tư vấn các vấn đề liên quan đến luật hình sự như tội phạm, khung hình phạt, tội danh, tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự...)

+   Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự về những nội dung cần chuẩn bị trước khi tham gia phiên tòa hoặc trong quá trình chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử

Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự tham gia phiên tòa để bào chữa cho bị can, bị cáo tại tòa.

1. Nội dung dịch vụ do Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự.

-  Trong giai đoạn tiếp cận hồ sơ vụ án  theo quy định pháp luật, cụ thể:

-  Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự của Luật Đại Kim tư vấn các quy định pháp luật hình sự và các văn bản pháp luật liên quan, dự cung; kịp thời khiếu nại, kiến nghị trong quá trình chuẩn bị xét xử.

-  Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự tư vấn quy định pháp luật về tội phạm và các nội dung khác liên quan đến tội phạm (tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng); tư vấn quy định về Đồng phạm, che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm…

-  Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự tư vấn quy định pháp luật về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, tư vấn những trường hợp không áp dụng miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.

-  Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự tư vấn quy định pháp luật hình sự về hình phạt, các hình phạt cụ thể và các nội dung khác liên quan đến hình phạt, tư vấn quy định pháp luật hình sự về quyết định hình phạt và vấn đề liên quan.

-    Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự tham gia bào chữa tại phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo.

2.  Quy trình thực hiện của Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự  được tiến hành theo các bước như sau:

Bước 1: Tiếp nhận thông tin và hồ sơ vụ việc (Quyết định khởi tố bị can, vụ án, giấy tờ liên quan…) từ bị can, bị cáo, người thân, người đại diện khác của bị can, bị cáo.

Bước 2: Xác định về điều kiện, thẩm quyền giải quyết, thời gian thực hiện và phân công luật sư tham gia tố tụng.

Bước 3: Thu thập chứng cứ, tài liệu và các điều kiện chứng minh khác theo quy định pháp luật nhằm phục vụ công tác tham gia tố tụng bào chữa cho bị can, bị cáo của luật sư.

Bước 4: Hoàn thiện hồ sơ tham gia tố tụng gửi các cơ quan tiến hành tố tụng và triển khai nghiên cứu hồ sơ vụ án.

Bước 5. Luật sư tham gia tố tụng tại cơ quan tiến hành tố tụng theo nhiệm vụ đã phân công nhằm bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự.

 

Chúng tôi là hãng luật tổng hợp nhiều đội ngũ luật sư giỏi, luật gia, thạc sỹ, chuyên viên, cộng tác viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kiến thức hiểu biết rộng, kỹ năng tư vấn chuyên nghiệp, đặc biệt có trách nhiệm và đạo đức trong nghề nghiệp. Luật sư Gia Đình đang mở rộng và luôn nỗ lực hoàn thiện nhiều loại hình dịch vụ đa dạng trong khu vực, trong nước và trên thế giới nhằm mang lại cho khách hàng của mình những dịch vụ tư vấn hoàn hảo nhất.

Chúng tôi là những luật sư xuất thân trong các gia đình có truyền thống yêu nghề luật, đam mê nghề luật nên các luật sư sáng lập thống nhất đặt tên là Văn phòng luật sư Gia Đình.

       Chúng tôi là hãng luật chuyên tư vấn luật thường xuyên cho nhiều doanh nghiệp và cá nhân trong nước và ngoài nước đồng thời là luật sư Riêng cho các doanh nghiệp cá nhân này.

      Luật sư Trần Minh Hùng Trưởng văn phòng - Luật sư sáng lập luật sư Gia Đình được nhiều hãng truyền thông tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ luật sư là đối tác tư vấn pháp luật miễn phí trên Đài tiếng nói Bình Dương, Đài truyền hình Bình Dương, Đài HTV, Đài truyền hình Vĩnh Long, Tư vấn luật trên Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Báo Pháp luật TPHCM, Báo tuổi trẻ đời sống, Báo đời sống và pháp luật, Báo Dân trí, Báo Vnxpress, Báo công an nhân dân, báo Pháp luật Gia Đình, Báo Soha, Kênh 14, Một thế giới, Báo tin tức Viêt nam, Báo ngày nay– Các tạp chí như Tiếp Thị Gia Đình, Báo đời sống và pháp luật, báo Infonet, VTC NEW, Báo Mới, là luật sư được Trường Đại học luật TP.HCM mời làm giám khảo cho cuộc thi Phiên tòa giả định, học thuật với trường Cảnh sát nhân dân và chuyên gia cho các hãng truyền thông uy tín.… luôn mang lại niềm tin cho khách hàng cũng như sự đóng góp tích cực cho xã hội của chúng tôi.

Chúng tôi chuyên tư vấn và thực hiện dịch vụ tại các tỉnh khắp trên cả nước như tư vấn tại Bình Dương, TP.HCM, đồng nai, Long An, Vũng Tàu, Hà Nội, Nha Trang, biên hòa, Đà Nẵng, Vinh…

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VPLS GIA ĐÌNH (Luật sư Thành Phố)

Trụ sở: 402A Nguyễn Văn Luông, P.12, Q.6, Tp.HCM (Bên cạnh Công chứng số 7)
5/1 Nguyễn Du, Biên Hòa, Đồng Nai (đối diện tòa án Biên Hòa)
68/147 Trần Quang Khải, Tân Định, quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08-38779958; Fax: 08-38779958
Luật sư Trần Minh Hùng: 0972 238006

Dịch Vụ Luật Sư Chuyên Bào Chữa Hình Sự

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Chúng tôi là Hãng luật chuyên bào chữa hình sự.
 

Quyền bào chữa là quyền dùng lý lẽ, đưa ra các chứng cứ, tài liệu để xác định rằng bị can, bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. 
Theo quy định của pháp luật thì bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo được ghi nhận tại Điều 132 Hiến Pháp 1992. Tại Điều 11 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 cũng quy định rõ : “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. 

Trong thực tiễn, vì những lý do khác nhau nên không phải bất kỳ người nào rơi vào vòng lao lý cũng có khả năng tự bào chữa một cách có hiệu quả. Do vậy, pháp luật tạo điều kiện cho họ thực hiện quyền bào chữa của mình bằng cách nhờ người khác, trong đó có luật sư. 

Luật sư là người có khả năng giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý có hiệu quả nhất vì luật sư là người có trình độ, kiến thức pháp luật, tinh thông nghiệp vụ và là người có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động bào chữa. Khi tác nghiệp luật sư sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 
Tham gia tố tụng hình sự là một trong những dịch vụ pháp lý đầu tiên, được thực hiện bởi các luật sư hình sự giỏi, nhiều kinh nghiệm, có bản lĩnh, tâm huyết với nghề luật sư và có trách nhiệm cao trước khách hàng.

Luật sư hình sự tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa (luật sư bào chữa) cho bị can, bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự:

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ trong trường hợp bắt người khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã từ khi có quyết định tạm giữ

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa (luật sư bào chữa) cho bị can từ khi có quyết định khởi tố bị can

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho bị cáo từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử

Chúng tôi cử luật sư hình sự tham gia các gia đoạn khởi tố, điều tra, tuy tố, xét xử theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng trong các vụ án chỉ định (các vụ án mà bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử ở khung hình phạt có mức án cao nhất; các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần…) 

Trường hợp tham gia từ giai đoạn điều tra, truy tố luật sư chúng tôi hướng dẫn bị can, bị cáo khai ngay từ khi bị hỏi cung trước các cơ quan điều tra, viện kiểm sát tránh ép cung, mớm cung, dụ cung để xác định sự thật khách quan của vụ án. Khách hàng được tư vấn kịp thời để không bỏ lỡ cơ hội hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Khi thực hiện quyền năng tố tụng của mình luật sư giúp cơ quan điều tra thu thập chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đặc biệt làm rõ những chứng cứ vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, hạn chế việc oan sai và vi phạm tố tụng trong quá trình điều tra, tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án được chính xác, nhanh chóng, kịp thời. 

Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, luật sư hình sự  có vai trò đặc biệt quan trọng
Luật sư nghiên cứu hồ sơ vụ án: Luật sư nhanh chóng phát hiện những tình tiết mâu thuẫn, những chứng cứ không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án cần được làm rõ... 

Luật sư chuẩn bị luận cứ và xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa: Phân tích, đánh giá chứng cứ, chú ý đến những tình tiết có lợi để minh oan hoặc gỡ tội cho bị cáo. Bằng luận cứ bào chữa hợp tình, hợp lý và có sức thuyết phục của mình Luật sư giúp đỡ thân chủ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, đồng thời giúp Hội đồng xét xử ra bản án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Chúng tôi luôn cử luật sư giỏi có khả năng bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong các vụ án hình sự: 

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại trong vụ án hình sự. 

Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì luật sư sẽ có thể thay mặt họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa:

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn dân sự trong vụ án hình sự

- Cử luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. 

Ngoài ra luật sư hình sự  còn có thể hướng dẫn thân chủ (khách hàng) soạn thảo đơn kháng cáo, đơn đề nghị xin kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo đúng quy định của pháp luật. 

Trân trọng cảm ơn Qúy khách đã tin tưởng chúng tôi trong thời gian qua.

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006