Luật Sư Chuyên Hình Sự

Luật Sư Bảo Vệ Cho Trẻ Em Bị Hiếp Dâm

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI BẢO VỆ CHO BỊ HẠI...........................

            Tôi luật sư Trần minh Hùng - VPLS Gia Đình - Đoàn luật sư TP.HCM là luật sư bảo vệ cho bị hại Lê Thị Hồng Yến đưa ra quan điểm bảo vệ đến Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định như sau:

            Về trách nhiệm hình sự:

            Đề nghị HĐXX xét xử bị cáo Đặng Hữu Công nghiêm minh bảo đảm tính răn đe và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật vì những lý do sau:

Chúng ta biết rằng trẻ em là những người được pháp luật và xã hội bảo vệ đặc biệt, Bộ luật hình sự đã dành nguyên một chương 10 để điều chỉnh đối với người chưa thành niên. Điều đó thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với trẻ em và trẻ em là những đối tượng được bảo vệ đặc biệt.

            Bị cáo phạm tội thuộc vào tình tiết tăng nặng TNHS theo quy định tại điểm h, điều 48 Bộ luật hình sự:

            Cụ thể tại điều 48 - BLHS quy định như sau:

            "Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất,  tinh thần, công tác hoặc các mặt khác".

            Theo Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”. 

            Bị cáo Công - Người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS “Phạm tội đối với trẻ em” nếu hậu quả của tội phạm xác định được đối tượng bị tội phạm tác động là trẻ em, mà không phụ thuộc vào việc trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội có nhận thức được đối tượng bị tội phạm xâm hại là trẻ em hay không phải là trẻ em. Có nghĩa là, người bị tội phạm xâm hại là trẻ em có nằm trong hay nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội đều không ảnh hưởng gì đến việc định tội danh, định khung hình phạt hay áp dụng tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt là “Phạm tội đối với trẻ em”.

            Phạm tội đối với trẻ em không phải là tình tiết chỉ thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội mà còn mang tính khách quan, ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Người phạm tội khi thực hiện tội phạm có thể biết rõ đối tượng bị tội phạm tác động là trẻ em, có thể họ không biết nạn nhân là trẻ em hoặc có thể họ không quan tâm nạn nhân là trẻ em hay không phải là trẻ em. Tội giao cấu với trẻ em (khoản 1 Điều 115 BLHS), Tội dâm ô vớ trẻ em tại điều 116... cho dù người phạm tội không biết đối tượng bị giao cấu đang dưới 16 tuổi hoặc chưa đủ 13 tuổi, đến khi các cơ quan tiến hành tố tụng kết luận mới biết được điều đó thì không ảnh hưởng gì đến việc định tội danh. Do vậy, không cần người phạm tội phải nhận thức được hoặc buộc họ phải nhận thức được đối tượng mà mình xâm phạm là trẻ em thì mới coi là phạm tội đối với trẻ em, mà chỉ cần xác định được nạn nhân là trẻ em thì người phạm tội phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS là “Phạm tội đối với trẻ em”.

            Đảng và Nhà nước ta luôn có những chính sách quan tâm, ưu tiên đối với trẻ em - thế hệ cần được xã hội bảo vệ và đối xử một cách đặc biệt. Nhưng hiện nay, thực trạng phạm tội đối với trẻ em vẫn xảy ra ngày càng nhiều, đặc biệt là các tội liên quan đến tệ nạn xã hội (mại dâm) và các tội phạm xâm phạm về tình dục. Để trừng trị và ngăn chặn tình trạng này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chính sách, biện pháp, trong đó nghiêm khắc nhất là biện pháp hình sự. Với mục đích nhằm trừng trị nghiêm khắc những người có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em, ngăn ngừa, răn đe, giáo dục đối với những người có ý định phạm tội đối với trẻ em, Luật Hình sự đã coi tình tiết “Phạm tội đối với trẻ em” là một tình tiết tăng nặng TNHS so với các trường hợp phạm tội khác.

            Phạm tội đối với trẻ em là trường hợp người phạm tội đã có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và các quyền khác của trẻ em theo quy định của pháp luật.

            Bị cáo Công với trình độ học vấn 9/12 đủ nhận thức hết hành vi phạm tội của mình đối với trẻ em.

            Khi thực hiện hành vi từ dâm ô đáng ra bị cáo phải ngừng ngay hành vi của mình nhưng sau đó bị cáo lại chứng nào tật đó tiếp tục thực hiện hành vi giao cấu với bị hại thể hiện sự coi thường pháp luật, coi thường tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người khác (cụ thể ở đây là trẻ em), coi thường quy tắc đạo đức xã hội, vi phạm truyền thống tốt đẹp của Việt nam.

            Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm nhiều tội, phạm tội đối với trẻ em nhưng cơ quan tố tụng thị xã Bình Long vẫn cho bị cáo được áp dụng biện pháp tại ngoại là chưa bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, không có tính răn đe và dễ phát sinh các hành vi phạm tiếp theo của bị cáo Công, chỉ khi mẹ bị hại ngăn cản và phát hiện thì Công mới ngừng hành vi phạm tội, nếu không Công có thể vẫn tiếp tục phạm tội. Cơ quan tố tụng đã không bắt tạm giam bị cáo Công để ngăn ngừa hành vi của Công có thể tiếp tục xảy ra là không bảo đảm quy định của bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Việc tạm giam với mục đích để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người đó sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, cơ quan tố tụng đã không thực hiện đúng quy định này.

            Căn cứ Tại Điều 92 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về điều kiện và thủ tục bảo lĩnh (bảo lãnh) như sau:

“1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.

            Căn cứ việc bị cáo phạm tội dâm ô, giao cấu với trẻ em, phạm nhiều tội nhưng vẫn cho tại ngoại là không bảo đảm đúng theo quy định pháp luật., gây bứ xúc và hoang mang cho dư luận nơi bị hại đang sinh sống.

            Tại điều 7 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định các hành vi nghiêm cấm như sau:

Điều7.Các hành vi bị nghiêm cấm

Nghiêm cấm các hành vi sau đây:

..............................................................................................

“Dụ dỗ, lừa dối, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm; xâm hại tình dục trẻ em...”

Điều 56 của Luật này quy định:

Điều56.Trẻ em bị xâm hại tình dục

“Trẻ em bị xâm hại tình dục được gia đình, Nhà nước và xã hội giúp đỡ bằng các biện pháp tư vấn, phục hồi sức khoẻ, tinh thần và tạo điều kiện để ổn định cuộc sống.

2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện biện pháp giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn và tố cáo hành vi xâm hại tình dục trẻ em”

            Được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, Công ước Quốc tế Quyền Trẻ em là một văn kiện quyền con người mang đậm tính nhân văn và được nhiều nước phê chuẩn nhất trên thế giới. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế Quyền Trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Từ sau khi phê chuẩn Công ước, Nhà nước Việt Nam có rất  nhiều nỗ lực trong việc thực  hiện Công ước, như  nâng cao  nhận  thức  về  quyền  trẻ  em; làm hài hoà giữa Công ước Quyền trẻ em và luật pháp quốc gia; đẩy  mạnh  quản lý nhà nước về trẻ em; tăng cường nguồn lực đầu tư cho trẻ em và đặc biệt là ngày càng quan tâm đến vai trò của chính trẻ em và người chưa thành niên

            Từ những căn cứ và các văn bản pháp lý nêu trên nêu trên, Đề nghị Tòa án xét xử cần căn cứ vào các tình tiết tăng nặng TNHS, hành vi nguy hiểm của bị cáo, phạm nhiều tội, coi thường sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, xâm phạm đến quy tắc đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc để có 1 hình phạt nghiêm khắc đủ sức răn đe đối với bị cáo, trấn an dư luận, tránh gây bức xúc cho dư luận đang rất bức xúc về hành vi của bị cáo Công, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm tính pháp chế XHCN.

Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khi hình phạt cao nhất khi lượng hình đối với bị cáo Công, đối với tội dâm ô đối với trẻ em, yêu cầu tuyên xử bị cáo 3 năm tù giam. Tội giao cấu đối với trẻ em yêu cầu tuyên xử bị cáo 5 năm. Tổng cộng mức hình phạt chung mà bị cáo phải chấp hành là: 8 năm tù giam.

Về trách nhiệm dân sự đối với tội dâm ô và giao cấu với trẻ em.

            Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 quy định về các tội dâm ô với trẻ em, tội giao cấu với trẻ được quy định tại Chương 12 - Phần các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.

            Người phạm tội trong trường hợp này phải bồi thường thiệt hại cho bị hại về mặt tinh thần, vật chất theo quy định tại Nghị quyêt số 03/2006/NQ-HĐTP và BLDS 2005.

a/.  Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm đối với tội dâm ô, bao gồm:

3.1 Chi phí hợp lý để hạn chế, 3.1. khắc phục thiệt hại bao gồm: chi phí cần thiết cho việc thu hồi ấn phẩm có nội dung xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị thiệt hại; chi phí cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; tiền tàu, xe đi lại, thuê nhà trọ (nếu có) theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí để yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại và các chi phí thực tế, cần thiết khác để hạn chế, khắc phục thiệt hại (nếu có).
3.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
3.3. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
 Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị xâm phạm. Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 10 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”.

b/. Căn Điều 609 BLDS 2005 quy định Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm đối với tội giao cấu với trẻ em.

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
 
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
 
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
 
2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”

            Căn cứ theo Nghị quyết số 99/2015/QH13 quy định mức lương cơ sở là: 1.210.000 đồng/tháng.

            Yêu cầu mức bồi thường như sau:

            Từ a + b = 12.100.000 đồng + 36.300.000 đồng = 48.400.000 đồng.

            Việc bồi thường phải được bồi thường ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

            Trân trọng cảm ơn HĐXX.

                                                TP.HCM, ngày   tháng   năm 2016

                                                            Luật sư Trần Minh Hùng

Luật Sư Bào Chữa Về Tội Mua Bán Trái Phép Chất Ma Túy

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

Căn cứ vào Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 đã sửa đổi, bổ sung năm 2009 có quy định về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy như sau:
 

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
 

a) Có tổ chức;
 

b) Phạm tội nhiều lần;
 

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
 

d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
 

đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
 

e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;
 

g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;
 

h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;
 

i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam;
 

k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;
 

l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam;
 

m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam;
 

n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;
 

o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này;
 

p) Tái phạm nguy hiểm.
 

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:
 

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;
 

b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;
 

c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;
 

d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;
 

đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam;
 

e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;
 

g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít;
 

h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này.
 

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
 

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;
 

b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;
 

c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;
 

d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;
 

đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;
 

e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên;
 

g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;
 

h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này.
 

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi mua bán chất ma túy trái pháp luật để kiếm lời. Tại khoản 1 Điều 194 không quy định rõ mua bán chất ma túy với số lượng bao nhiêu thì sẽ cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên tại điểm m khoản 2 Điều 194 quy định “ các chất ma túy ở thể rắn có trong lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam” sẽ bị phạt tù từ 7 năm đến mười lăm năm. Do vậy căn cứ vào quy định của pháp luật cho thấy, khi có hành vi buôn bán ma túy nhằm mục đích kiếm lời hoặc mang ma túy ra trao đổi ngang giá sẽ phạm tội mua bán trái phép chất ma túy mà không cần biết mua bán với số lượng bao nhiêu. Bởi vậy, anh bạn mua bán với số lượng chưa đầy 1gam ma túy sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định trên, bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Luật Sư Bào Chữa Tội Cố Ý Gây Thương Tích

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO BỊ HẠI

          Tôi luật sư Trần Minh Hùng - Văn phòng luật sư Gia Đình, thuộc Đoàn luật sư TP.HCM là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Trần Văn Túc.

Tôi trình bày những quan điểm bảo vệ như sau:

          I/. Về mặt hình sự và thủ tục.

          Căn cứ theo quy định Điều 51 BLTTHS quy định về người bị Người bị hại

1. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.

2. Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:

a) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

b) Được thông báo về kết quả điều tra;

c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;

d) Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;

đ) Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo.

Bị hại không nhận được bản kết luận điều tra, không nhận được bản cáo trạng cũng như thông báo về kết quả điều tra để khiếu nại về kết luận điều tra và cáo trạng.

Đề nghị HĐXX xem xét về mặt tố tụng, vì đây có dấu hiệu vi phạm tố tụng. Điều này đã làm hạn chế quyền khiếu nại của người bị hại.

          Đề nghị tòa án làm rõ và nếu cần thiết trả hồ sơ để điều tra bổ sung xem có đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức hay không? có bỏ lọt tội phạm không? Phạm tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (Khoản 3 Điều 20 BLHS). Trong vụ án này tôi cho rằng ở giai đoạn điều tra hồ sơ điều tra chưa chặt chẽ, nhiều vấn đề chưa được làm rõ trong hồ sơ, cụ thể:

Không xác minh số điện thoại chồng bà Loan là Sơn đã điện thoại cho những ai từ khoảng 21h đến 22h đêm xảy ra sự việc đánh nhau.

Tại bản hỏi cung ngày 4/3/2016 bút lục số 224 Tuấn khai Sơn không điện thoại cho Tuấn nhưng tại sao vợ Sơn là Loan tại bản hỏi cung ngày 6/1/2015 lại khai là 21h45h thì Tuấn có gọi cho Loan ? như vậy vấn đề này chưa được làm rõ và mâu thuẫn trong lời khai của bà Loan. Bản hỏi cung ghi lời khai ngày 4/11/2015 (BL 103) Loan khai không biết Tuấn Mập nhưng bản hỏi cung ghi lời khai ngày 6/1/2016 Loan lại Khai là Tuấn mập gọi cho Loan lúc 21h45 phút nhưng Loan để điện thoại nhà Dì Loan? Như vậy tại  sao Loan khai không quen biết Tuấn nhưng sao Tuấn lại có số điện thoại Loan? vấn đề này cũng chưa được làm rõ trong quá trình điều tra và tại sao Tuấn gọi cho Loan để làm gì?

Giai đoạn điều tra cơ quan điều tra không xác minh số thiện thoại Sơn có gọi cho Trọng không?

Việc chỉ lập biên bản kiểm tra điện thoại Trọng, Loan vào lúc 23h ngày 5/1/2015 và xem cuộc gọi Trọng gọi cho những ai là chưa khách quan, không có sức thuyết phục vì có thể bị xóa vì vụ việc xảy ra từ khoảng 21h đến 22h mà 223h mới kiểm tra điện thoại thì các đương sự có thể đã xóa hết vì thời gian đã hơn 1 tiếng đồng hồ. Do vậy cần xác minh tại tổ chức cung cấp dịch vụ mạng điện thoại là thời điểm 21h đến 22h đêm xảy ra vụ đánh nhau thì Sơn, Tuấn, Trọng, Loan đã gọi cho những ai thì mới khách quan, thuyết phục.

Loan khai 21h30 gọi cho Sơn, tại sao gọi? Nhưng 21h45 Loan lại nói Tuấn gọi mà để điện thoại ở nhà Dì? đây là điều mâu thuẫn vì mới gọi điện thoại cho Sơn 21h30 mà sao 21h45 lại để ở nhà Dì?

Cơ quan công an chưa làm rõ tại sao Tuấn gọi cho Loan? mục đích, động cơ, nguyên nhân lý do tại sao Tuấn gọi cho Loan để làm gì?

Biên bản kiểm tra số điện thoại đêm 5/1/2015 chỉ xác minh Trọng gọi cho ai mà không xác Minh Loan gọi cho ai? không lập biên bản thu điện thoại Tuấn, Sơn để xác minh những người này gọi cho ai?

Việc chỉ lập biên bản thu điện thoại Trọng, Loan và xem cuộc gọi không là chưa khách quan, không có sức thuyết phục và chưa làm rõ bản chất và sự thật của hành vi. vì có thể bị xóa, cần xác minh tại tổ chức cung cấp mạng dịch vụ điện thoại  mới khách quan, chính xác, có căn cứ.

Cần làm rõ động cơ, mục đích Tuấn đánh ông Túc? không thể không hằn thù gì mà đánh ông Túc bị thương tật tới 52%? quá côn đồ và coi thường pháp luật không?

Căn cứ bản kết luận giám định số 191TgT.15 ngày 23/3/2015 của Trung tâm pháp y TP.HCM thì ông Túc bị thương 52% do vật tày tác động, rõ ràng vật tày sao lại kêu té bị thương? Tuấn khai đấm bị thương? 1 cú cùi chỏ không thể để lại thương tích như vây? Bản kết luật giám định kết luận ông Túc bị” chấn thương đầu mặt gây rách da môi trên trái, vỡ sọ trán phải, vỡ bờ trên ngoài ô mắt phải, gãy xương chính mũi, tụ máu trong não thùy trán phải...các vết thương do vật tày gây ra...”. . Như vậy nếu cho rằng ông Túc bị té xuống đường sao bị thương trên trán phải chứ không chính giữa trán? rõ ràng chưa làm rõ về việc Tuấn có dùng cây gậy 3 khúc đánh ông Túc không? bởi khi ngã theo quán tính sẽ ngã sấp chứ không thể ngã nghiêng, bằng chứng ngã sấp là ông Túc bị rách môi, mặt, mũi, còn vết thương nặng bên phải xuất huyết não trán phải không thể do ngã gây ra mà do Tuấn gây ra.

Với những tình tiết trên nhưng cơ quan điều tra, viện kiếm sát không tiến hành thực nghiệm điều tra là không bảo đảm làm rõ sự thật khách quan vụ án, không làm rõ được hành vi phạm tội của bị cáo Tuấn là đánh bằng tay không hay dùng hung khí?

Theo quy định tại Điều 153 BLTTHS quy định về Thực nghiệm điều tra như sau:

1. Để kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, Cơ quan điều tra có quyền thực nghiệm điều tra bằng cách cho dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc mọi tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết. Khi thấy cần, có thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ.

2. Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, phải có người chứng kiến. Trong trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng cũng có thể tham gia.

Không được xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của những người tham gia việc thực nghiệm điều tra.

3. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có thể tiến hành thực nghiệm điều tra. Việc thực nghiệm điều tra được tiến hành theo quy định tại Điều này.

Ông Túc cao hơn Tuấn, vậy làm sao bị cáo Tuấn có thể dùng cùi chỏ đánh vào mặt ông Túc được, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh kết luận Tuấn đánh ông Túc bằng khuỷu tay là không có sức thuyết phục, cáo trạng kết luận ông Túc thách thức và chửi Tuấn càng không có cơ sở, vì Túc không biết Tuấn sao phải thách thức và chưỉ? Cáo trạng nêu Tuấn đánh ông Túc ngất xíu bỏ đi, Tuấn bỏ chạy chứ không phải bỏ đi.

Do không thực nghiệm điều tra nên đã không xác định được Tuấn đánh ông Túc bằng hung khí hay là tay không?

các bị hại khác khai đều bị đánh, xịt hơi cay? điều này đều chưa được điều ra, làm rõ cụ thể.

Cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc đối với Tuấn, căn cứ theo điều 48 BLHS bị cáo Tuấn có những tình tiết tăng nặng TNHS như:

Phạm tội có tính chất côn đồ (điểm b điều 48 khoản 1), k) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; h) Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất,  tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi lượng hình bị cáo Tuấn để bảo đảm đủ sức răn đe, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.

II/. Về trách nhiệm dân sự:

          Mức bồi thường đối với người gây thiệt hại cho người khác về sức khoẻ mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự:

          Theo quy định tạiĐiều 609 BLDS 2005thì người gây thiệt hại cho sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại cho người đónhững chi phísau:

- Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

+ Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

+ Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

- Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

          Căn cứ Nghị quyết số 03/2006 quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Tòa án nhân dân tối cao.

          Yêu cầu tòa án giải quyết bồi thường các khoản sau:

1/. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

 Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

Bệnh viện nhân dân gia định:

 610.148 đồng (đính kèm biên lai thu tiền phí, viện phí số 0063660)

500.000 đồng (đính kèm biên lai thu tiền phí, viện phí số 0063637)

Tổng cộng: 1.110.148

Bệnh viện Chợ Rẫy:

756.579 đồng (Biên lai thu tiền phí, lệ phí số 0585057)

Bệnh viện chỉnh hình và phục hồi chức năng, cụ thể:

Phiếu thu số NT 149374 số tiền: 5.619.807 đồng, Phiếu thu NT 149376 số tiền: 326.740 đồng, Bảng kê khám chữa bệnh nội trú ngày 19/1/2015 số tiền: 13.941.844 đồng, Bảng kê khám chữa bệnh nội trú ngày 19/1/2015 số tiền: 457.700 đồng, Bảng kê khám chữa bệnh ngoại trú ngày 24/1/2015 số tiền: 843.600 đồng, Phiếu thu khám chữa bệnh ngày 24/1/2015: 60.000 đồng

Tổng cộng:15.303.144 đồng

Công ty CPDV Y Tế Ký Thuật Cao thống Nhất:

Phiếu thu ngày 24/1/2015: 650.000 đồng

Bệnh Viện 115:

Phiếu thu ngày 13/7/2015: 527.776, Chẩn đoán hình ảnh 858.000 đồng, thăm dò chức năng: 30.000 đồng, thuốc, dịch truyền: 745.880 đồng, xét nghiệm: 665.000 đồng.

Tổng cộng: 3.306.650 đồng

+ Tiền taxi đi về của bệnh nhân:

- Taxi đi từ BVND Gia Định đến BV Chợ Rẫy: 200.000 đồng (lần 1)

- Tiền Taxi  chuyển viện từ BV Chợ Rẫy đến BV chỉnh hình và Phục hồi chức năng: 200.000 đồng

- Tiền đưa bệnh nhân về nhà từ : 200.000 đồng

- Taxi đưa bệnh nhân tái khám BV chỉnh hình và Phục hồi chức năng: 200.000 đồng.

- đưa về nhà: 200.000 đồng

- Taxi đưa bệnh nhân đến BV 115: 200.000 đồng.

- Taxi đưa bệnh nhân về nhà từ BV 115: 200.000 đồng

- Taxi đưa bệnh nhân tái khám BV 115: 200.000 đồng

- Tiền đưa bệnh nhân về nhà: 200.000 đồng

Tổng cộng: 1.800.000

+ Toa thuốc Pradaxa 150mg 2.022.000 đồng/tháng, cụ thể:

Thuốc Pradaxa đã uống theo các hóa đơn sau:

Hóa đơn bán lẽ nhà thuốc Long Châu ngày 13/7/2015: 2.022.000 đồng

Hóa đơn bán lẽ nhà thuốc Long Châu ngày 13/8/2015: 2.022.000 đồng

Hóa đơn bán lẽ nhà thuốc Long Châu ngày 13/9/2015: 2.022.000 đồng

Hóa đơn bán lẽ nhà thuốc Long Châu ngày 1/10/2015: 2.004.000 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 2/11/2015: 2.022.000 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 5/12/2015: 2.022.000 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 2/1/2016: 2.034.000 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 1/2/2016: 2.016.000 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 2/3/2016: 876.200 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 14/3/2016: 1.135.600 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 4/4/2016: 2.004.000 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 24/5/2016: 2.010.000 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 30/5/2016: 2.004.000 đồng

Hóa đơn bán hàng nhà thuốc Long Châu ngày 1/7/2016: 2.004.000 đồng

Tổng cộng: 26.197. 800 đồng

Tiền bồi dưỡng sức khỏe cho bệnh nhân trong 17 tháng (tính từ lúc Bị cáo Tuấn đánh ông Túc cho đến : 17 x 3.000.000 đồng/tháng,  tức 1 ngày 100.000 đồng. Tổng chi phí: 30.000.000 đồng. Số tiền này không có hóa đơn do mua đồ ăn bên ngoài chợ.

Tổng cộng:51.000.000 đồng

Các chi phí trên chỉ tạm tính đến ngày tòa án xử sơ thẩm vì hiện nay ông Túc đang điều trị và đang uống thuốc.

2/.  Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

+ Tiền taxi đi về của bệnh nhân và người phục vụ:

- Chi phí cho 2 người nuôi bệnh và bệnh nhân: chi phí đi lại, tiền taxi, xăng xe: 3.000.000 đồng.

- 02 người mất thu nhập:

Trần Thị Thúy Hằng: 150.000 đồng/ngày x 22 ngày = 3.300.000 đồng ?(làm nghề tự do).

- Trần Thị Thúy Hiền: 200.000 đồng/ngày x 300 ngày = 60.000.000 đồng (làm nghề tự do).

Tổng cộng: 66.300.000 dồng.

3/. Tiền bị tổn thất về tinh thần:

 30 tháng lương tối thiểu theo luật định:

Theo Nghị Định Số: 99/2015/NĐ-CP quy định về mức lương tối thiểu vùng có hiệu lực ngày 1/1/2016. Theo quy định tại điều 3 Nghị định thì  Mức 1.210.000.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I , thuộc TP.HCM.

Như vậy: 30 x 3.500.000 đồng  = 105.000.000 đồng.

Tổng từ 1 + 2 + 3 = 271.424.327 đồng. Yêu cầu bị cáo Tuấn và những người liên quan chịu trách nhiệm bồi thường khoản tiền này cho ông Túc.

Xin cảm ơn HĐXX

                                       

LUẬT SƯ TRẦN MINH HÙNG

luật sư bào chữa về tội giết người

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI BẢO VỆ

(Đối với vụ án hình sự bị cáo Trịnh Minh Châu phạm tội giết người và cố ý gây thương tích được Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử ngày 14/12/2015)

            Kính thưa: HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

                               VỊ ĐẠI DIỆN VIỆN KIỂM SÁT

                              QUÝ LUẬT SƯ ĐỒNG NGHIỆP

Tôi luật sư Trần Minh Hùng - Văn phòng luật sư Gia Đình, Đoàn luật sư TP.HCM. Là người bảo vệ quyền và nghĩa vụ cho ông:

 HUỲNH THANH PHONG, sinh năm: 1967

            Địa chỉ: ấp Giồng Giữa, TT - Lịch Hội Thượng, Trần Đề, Sóc Trăng.

            Điện thoại: 0987403171

            ông Phong là con ruột và người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị Tám là nạn nhân bị bị cáo Trịnh Minh Châu đánh chết.

            Nội dung bảo vệ:

            Nguyên vào ngày 14/12/2015 tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng có xét xử vụ án bị cáo Trịnh Minh Châu phạm tội giết người theo quy định tại điều 93 Bộ luật hình sự và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại điều 104 Bộ luật hình sự.

            Tại phiên xử ngày 14/12/2015 tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng tuyên xử phạt bị cáo Trịnh Minh Châu 20 năm đối với tội giết người và 2 năm đối với tội cố ý gây thương tích. Tổng hình phạt là 22 năm tù.

            Tại phiên tòa hôm nay, tôi có một số quan điểm bảo vệ cho người đại diện hợp pháp của bà Tám như sau:

            Nguyễn Thị Tám là một người già, sinh năm 1947 và bị gãy chân đang chống nạng vậy mà khi bị cáo Châu đánh vợ tên Huỳnh Thanh Thu (vợ bị cáo Châu), bà Tám chỉ can ngăn và kêu cứu vậy mà bị cáo Châu cố ý truy sát và đánh bà Tám đến chết. Bằng chứng là bị cáo Châu cầm cây tre lớn có đinh dài nằm trên vẫn chưa rút ra nhưng tên Châu vẫn tàn ác xuống tay đánh thẳng vào đầu bà Tám chết. Những vết thương rất nghiêm trọng để lại trên đầu bà Tám và bà Tám đã bị chấn thương sọ não. Như vậy đầu là chỗ hiểm yếu, cây tre to có đinh là hung khí nguy hiểm tên Châu dùng để đánh bà Tám là cố ý giết bà Tám đến cùng, bà Tám là người không có khả năng tự vệ vì vừa già vừa bị gãy chân, hành vi này thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự vì tại điều Điều 48. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của Châu là:

h) Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất,  tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;k) Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;m) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

Không những vậy, bà Tám là mẹ vợ của BC Châu mà BC Châu vẫn ra tay quyết liệt giết một cách tàn nhẫn không thương tiếc trong khi bà Tám chỉ can và kêu cứu vì việc tên Châu đánh con là bà Huỳnh Thanh Thu.

            Ngay sau khi giết chết bà Tám BC Châu không có một lời xin lỗi, không bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân. Do kém hiểu biết pháp luật nên tại phiên tòa sơ thẩm gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại về mặt dân sự.

            Vì những lý do trên, tôi mong muốn HĐXX xem xét

            Tuyên bị Cáo Trịnh Minh Châu phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của mình, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm sự giáo dục của hình phạt. Việc áp dụng xử phạt BC Châu 20 năm tù đối với tội giết người của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng theo tôi là chưa đủ sức răn đe.

Yêu cầu bị cáo Trịnh Minh Châu phải chịu trách nhiệm bồi thường về mặt dân sự bao gồm tiền mai táng, thuốc men, viện phí, tiền tổn thất về tinh thần là: 120.000.000 đồng.

trong đó:

 Tiền hàng gương: 25.992.000 đồng (hai mươi lăm triệu chín trăm chín mươi hai nghìn đồng), có hóa đơn.

Tiền thuốc: 796.000 đồng (bảy trăm chín mươi sáu nghìn đồng).

Tiền làm mã: 23.000.000 đồng (hai mươi ba triệu đồng)

Tiền làm đám đang: 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng).

Tiền tổn thất tinh thần: Theo nghị định số: 122/2015 NĐ-CP ngày 14/11/2015 thì Sóc Trăng thuộc vùng III, mức lương tối thiểu là: 2.700.000 đồng. Căn cứ theo quy định tại điều 610 BLDS 2005, mức bồi thường do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được là 60 tháng lương tối thiểu. Nay đại diện người bị hại yêu cầu múc bồi thường thấp hơn nhiều so với quy định pháp luật. Tức chỉ yêu cầu bồi thường về tinh thần là: 35.212.000 đồng (ba mươi lăm triệu hai trăm mười hai nghìn đồng) (tương đương khoảng 13 tháng lương tối thiểu).

Tổng cộng số tiền bồi thường là: 120.000.000 đồng.

            Kính mong Qúy tòa xem xem, chấp nhận bài bảo vệ của tôi.

            Trân trọng cảm ơn.

                                                                        Sóc Trăng, ngày   tháng   năm 2016

                                                                        LS TRẦN MINH HÙNG ĐÃ BẢO VỆ

tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Viết bởi Ls. Trần Minh Hùng. Posted in Luật Sư Chuyên Hình Sự

 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

A) Có tổ chức;

B) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

C) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

D) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

Đ) Tái phạm nguy hiểm;

E) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

B) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

B) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

Theo đó,  người nào  vi phạm một trong các hành vi được quy khoản 1 Điều 140 nêu trên, chiếm đoạt được tài sản có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng thì phải chịu mức phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

 Nếu người vi phạm thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 140 BLHS năm 2009 với tài sản chiếm đoạt được  có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng thì  phải chịu mức hình phạt là bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

  Các quy định  tại khoản 3, khoản 4, khoản 5  Điều 140 không đề cập tới mức phạt khi mà người phạm tội chiếm đoạt được tài sản  có giá trị 50 triệu đồng.

Chúng tôi quan niệm Luật sư là nghề cao quý- cao quý vì nghề luật sư là nghề tìm công bằng và công lý cho xã hội. Luật sư bảo vệ cho những nạn nhân, tội phạm, và những người bị oan sai. Nghề luật sư là nghề rất nguy hiểm và khó khăn dù bào chữa, bảo vệ cho bất kỳ ai thì luật sư luôn gặp nguy hiểm vì sự thù hằn của bên đối lập. Do vậy để làm được luật sư thì phải có tâm, có đạo đức, có tài năng và phải đam mê nghề nghiệp, yêu nghề, chấp nhận có khăn, hy sinh và chấp nhận nguy hiểm. Nếu bạn sợ nguy hiểm, sợ ảnh hưởng đến công việc, cuộc sống của mình và gia đình thì rất khó hành nghề luật sư đúng nghĩa. Niềm vui của luật sư là khi giải oan được cho thân chủ, giúp được cho thân chủ, đem lại công bằng, công lý cho thân chủ nhằm góp phần đem lại công bằng cho xã hội. Chúng tôi là luật sư sẽ hội đủ những điều kiện trên và tiêu chí của chúng tôi luôn cố gắng để hoàn thiện đầy đủ những yếu tố trên. Chúng tôi quán triệt các luật sư trong văn phòng cũng như công tác viên, cộng sự, nhân viên đều phải rèn luyện đạo đức và tài năng để hoạt động đúng tiêu chí mà chúng tôi quan niệm theo đuổi trong suốt quá trình hành nghề.

        Luật sư Trần Minh Hùng là một trong những luật sư sáng lập văn phòng luật, giàu kinh nghiệm về kiến thức và thực tiễn đã dành nhiều thắng lợi vụ kiện và quan trọng luật sư Hùng luôn coi trọng chữ TÂM của nghề luật sư và trách nhiệm đối với xã hội nên đã được nhiều hãng báo chí, truyền thông, Đài tiếng nói Việt nam phỏng vấn nhiều lĩnh vực quan trọng liên quan đến đời sống. Luật sư Trần Minh Hùng được nhiều hãng truyền thông, báo chí trong nước  tin tưởng với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn trên VOV Giao Thông – Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình cáp VTC, Đài truyền hình TP.HCM (HTV), Đài truyền hình Vĩnh Long... Báo pháp luật TP.HCM, Báo đời sống và pháp luật, báo Đời sống và tuổi trẻ,báo Dân Trí, Báo VNxpress, Báo Soha, Kênh 14, Một thế giới, Báo tin tức Việt nam– Các tạp chí như Tiếp Thị Gia Đình, Báo điện tử, báo Infonet,  VTC NEW, Báo Mới, Báo gia đình Việt nam, Báo ngày nay, Báo người lao động, Báo Công an nhân dân, Kiến thức ngày nay, Báo Gia đình và xã hội, Tầm nhìn…là đối tác tư vấn luật của các hãng truyền thông này và luôn mang lại niềm tin cho khách hàng và ghi nhận sự đóng góp của chúng tôi cho xã hội...

Là văn phòng luật chuyên tư vấn luật trên báo chí các sự kiện nổi bật, nóng hổi trên cả nước nhằm tuyên truyền pháp luật cho mọi người và thể hiện được sự uy tín, kinh nghiệm kiến thức và thực tiễn của chúng tôi.

          

Giới Thiệu Luật Sư Trần Minh Hùng

link s75  

Với phương châm đặt chữ "Tâm" của nghề lên hàng đầu, chúng tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào sự công bằng và bảo vệ công lý cho xã hội. Là hãng luật uy tín thường xuyên tư vấn luật trên HTV, VTV, THVL, ANTV, VTC, SCTV, TH Cần Thơ, Đồng Nai và trên các tờ báo uy tín... Chúng tôi chuyên tư vấn, bào chữa cho khách hàng, thân chủ trên mọi lĩnh vực đất đai, thừa kế, hình sự, doanh nghiệp, ly hôn, công nợ, lao động, hợp đồng....

 

                                   LS TRẦN MINH HÙNG 


Hotline:0972238006